(Xin nhấn vào câu hỏi)
1/ Bố thí pháp là gì? Cư sĩ tại gia có thể bố thí pháp không?
2/ Thượng tọa nghĩa là gì? Có bao nhiêu bậc thượng tọa?
Theo yêu cầu của một nhóm học viên trong lớp học, chúng tôi cho thọ trì " Tám trai giới" online vào mỗi sáng 7 giờ ( giờ California) thứ Hai hằng tuần.
Sau khi truyền giới, các giới tử có 45 phút để đặt các câu hỏi liên quan đến tu học.
Đầu tuần này, sau khi truyền giới, có giới tử đặt câu hỏi:" Thưa thầy, trong phần (7) Bố thí pháp, trang 72, sách LPDVSHHTCDVXH đang học vào chiều thứ Bảy. Bố thí pháp là tối thắng.
Bố thí pháp là gì?
Người phật tử tại gia có thể bố thí pháp không?
Thượng tọa là gì? Có bao nhiêu bậc thượng tọa?
Chúng tôi chia sẻ,
Bố thí pháp là học, hiểu, nhớ những lời dạy của Đức Phật với những chi pháp, thực hành, có kinh nghiệm. Nếu ai có nhu cầu tìm hiểu thì có thể chia sẻ cho ai đó theo kiến thức phật học đúng đã học hay kinh nghiệm tu tập. ( không phải cố sức bắt ai đó học và tu tập theo ý mình với tâm si đưa đến hành khổ hay cố sức thay đổi tín ngưỡng của người khác kiểu convert)
Ví dụ,
Một hôm, con gái nói với mẹ. Mẹ ơi, tại sao nhiều lần, với ý tốt, con khuyên bảo, chia sẻ với các bạn nhưng không được họ đón nhận. Con rất buồn, mẹ biết tại sao không?
Người mẹ hỏi, khi con chia sẻ hay khuyên bạn, có đúng lúc không? Đúng nơi không? Họ đã sẳn sàng có nhu cầu nghe con chưa? Có chắc chắn về sự việc muốn nói không? Có chắc là có lợi cho họ không? Có nói bằng lời dễ nghe không? Khi nói có vui vẻ không?
Người con, con đã không để ý đến các yếu tố này.
Mẹ, nếu bạn con nói gì đó với con nhưng không đúng nơi, không đúng lúc, khi con chưa sẳn sàng nghe, sự việc chưa cụ thể có thực, không có lợi cho con, bằng lời nói khó nghe, khi không vui thì con có đón nhận, lắng nghe, làm theo họ không?
Con, không, con không thể.
Như vậy, khi con muốn khuyên bạn điều gì thì nên chọn đúng lúc, đúng nơi, họ đã sẳn sàng chưa; sự việc có thật không; thật sự có lợi ích cho người nghe không; nói như thế nào để họ có thể nghe và khi bực mình, khó chịu thì không được nói.
( Đức Phật dạy về 5 yếu tố muốn nói chuyện với người khác)
Đây là bố thí pháp.
Ví dụ khác.
Con, Mẹ ơi, con không hiểu thế nào là nói dối?
Mẹ, Nói dối là lời nói ra khác với ý nghĩ nhưng phải đủ 5 yếu tố mới thành nghiệp đạo nói dối đưa đến đau khổ ( vì chính mình sẽ là nạn nhân của lời nói dối đó). Đó là,
1/ Đối tượng nghe là con người.
2/ Người muốn nói biết người nghe là người.
3/ Cố ý nói với tâm xấu như tham, sân hay si.
4/ Nói ra lời rõ ràng.
5/ Người nghe bị lừa gạt.
Đó là nói dối.
Con, như vậy, trong trường hợp bác sĩ muốn trấn an bệnh nhân nên không nói rõ căn bệnh thì có thành nói dối không?
Mẹ, không, vì ngược với yếu tố thứ ba. Bác sĩ nói với tâm thiện để bệnh nhân an tâm trị bệnh.
Đó là bố thí pháp.
Như vậy, chúng ta có thể chia sẻ pháp học hay pháp hành với kinh nghiệm tu tập cho bất kỳ ai khi họ có yêu cầu nhưng không được cố ép họ làm theo ý mình hay cố sức thay đổi tín ngưỡng của họ. Chính họ sẽ làm gì khi họ thấy cần..
TUYỆT ĐỐI KHÔNG CHIA SẺ HƯỚNG DẪN NGƯỜI KHÁC NHỮNG SINH HOẠT THEO HÌNH THỨC TÔN GIÁO, CẤM KỴ, MÊ TÍN, CẦU CÚNG, VAN XIN VÌ CHÚNG KHÔNG PHẢI LÀ CHÁNH PHÁP DO ĐỨC PHẬT DẠY.
Về Thượng tọa ( 上.座) : Thera
Nghĩa đen là bậc ở vị trí trên ( tọa hay tòa là chỗ ngồi, vị trí ). Theo quy định của Luật xuất gia, vị tỳ kheo nào thọ giới cụ túc trên 10 hạ là bậc thượng tọa [ thera (p) sthavira (s)].
Đức Phật nói có ba bậc thượng tọa. ( Về ba bậc thượng này, tôi đã từng đọc trong Nikāya và ghi lại nhưng giờ tìm lại chưa ra. Vị nào biết chỗ nào nhắc giúp cho. Tài liệu Tàu thì trong chương Thượng tọa sách Trùng trị Tỳ ni của Ngài Trí Húc)
1/ Pháp tính thượng tọa [ dhamma thera (pāli ), dharma sthavira (sanskrist)]
Những vị xuất gia lớn hay nhỏ hơn 10 hạ, kể cả vị sa di nhưng đã chứng quả A la hán.
2/ Sinh niên thượng tọa [ jāti thera ( P), Jāti sthavira ( s)]
Những vị tỳ khưu đúng pháp, từ 10 tuổi hạ trở lên.
3/ Thế tục thượng tọa
[ sammuti thera (p), samvrti sthavira (s)]
Có nhiều cách giải thích, chỉ cho các vị tỳ khưu chưa đủ 10 hạ hay hay sa di hay người phật tử tại gia nhưng thông hiểu pháp học và pháp hành thì có thể ngồi ở vị trí trên ( trong khi giảng dạy) chia sẻ giáo pháp cho các vị khác, kể cả người nghe là vị xuất gia lớn hạ hơn.
Tôi được nghe trong một buổi thuyết pháp tại chùa Đạo Quang, Dallas, TX, Ngài Pháp Nhẫn ( Tăng trưởng Phật giáo Theravāda VN ở Mỹ, bào huynh của Ngài Viên Minh) có kể một câu chuyện, đại ý,
Vào thời Đức Phật, một cư sĩ thỉnh một vị tỳ khưu đến nhà thọ trai.
Sau khi vị tỳ khưu thọ trai, vị cư sĩ cung thỉnh vị tỳ khưu thuyết pháp.
Vị tỳ khưu nói, tôi mới xuất gia chưa lâu, chưa thông pháp học và pháp hành, cư sĩ thông cảm. .
Vị cư sĩ đảnh lễ thưa, vậy con xin chia sẻ giáo pháp với ngài. .
Sau đó, vị cư sĩ nói pháp cho vị tỳ khưu kia nghe.
Trong thời gian ở Miến điện, tôi đến ở trường thiền.... vị thiền sư hướng dẫn nhỏ hạ hơn tôi. Khi trình pháp, vị ấy ngồi trên, tôi ngồi bên dưới. Khi đi bát buổi sáng, vị ấy đi trước, chúng tôi đi sau.
Các vị phật tử tại gia thường có ý nghĩ, bố thí pháp phải là các vị xuất gia, pháp phải là những gì cao xa vv và vv...
Không hẳn như thế, tất cả những người phật tử dù xuất gia hay tại gia đều có thể bố thí pháp. Có nghĩa là chúng ta học, hiểu đúng lời dạy của Đức Phật, thuộc các chi pháp, thực hành có kinh nghiệm. Chúng ta có thể vận dụng lời Đức Phật bằng những cách đơn giản, dễ hiểu, thiết thực, không có hình thức giảng đạo, KHÔNG CÓ HÌNH THỨC SINH HOẠT TÔN GIÁO, CẦU CÚNG, KIÊNG KỴ, chia sẻ cho gia đình, bạn bè... những người đang cần phương án giải quyết cho những rối ren của họ ngay trong sinh hoạt của đời sống. Tất cả những việc làm trên đều là bố thí pháp.
Thưa Thầy
Nhận ra, không còn lệ thuộc thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ có giúp được gì cho đời sống thực tế với cơm áo gạo tiền, hạnh phúc và đau khổ cho bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội không?
Sau khi đọc các bài viết ngắn về trình tự tu tập của người phật tử, có bạn trong lớp học gửi cho chúng tôi câu hỏi trên.
Chào bạn,
Cảm ơn câu hỏi rất thực tế và có chiều sâu của bạn. Để hợp tác chia sẻ đáp án về câu hỏi này, trước tiên, chúng ta cần phải hiểu rõ thế nào là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ theo đúng ý nghĩa nội hàm của chúng. Sau đó, chúng ta cần nhận ra sự ảnh hưởng tiêu cực và tác hại của chúng như thế nào trong sinh hoạt của chúng ta. Cuối cùng, bằng cách gì nhận ra, không lệ thuộc chúng và có hạnh phúc từ sự không lệ thuộc chúng ngay trong hoàn cảnh của chính mình.
Tôi sẽ cố gắng trình bày cực kỳ đơn giản, dễ hiểu, không quá chuyên môn, trường lớp. Tôi nghĩ nếu bạn thực sự có nhu cầu như câu hỏi thì chịu khó đọc kỹ, bạn sẽ hiểu và tự giải quyết được vấn nạn này.
Chúng ta cùng nhau đi từng bước,
1/Hai lĩnh vực của sự vật. Sự thật quy ước và sự thật tự thân của sự vật.
Theo tâm lý học ( Abhidhamma) của Phật học, chia nội thân của chúng ta và ngoại cảnh thành hai lĩnh vực sự thật.Đó là sự thật theo ngôn ngữ, biểu tượng quy ước ( sammutisacca: tục đế: 俗諦: conventional truth: quỹ sinh vật giải) và sự thật tự thân của sự vật ( paramatthasacca: chân đế: 真諦: ultimate truth: nhậm trì tự tánh)
a/ Lĩnh vực sự thật trên nhận thức do chế định, quy ước, quy định của loài người đặt ra tạo thành khâi niệm của chúng ta, thể hiện bằng ngôn ngữ và biểu tượng, tùy theo hoàn cảnh. Ví dụ, chúng ta đang tiếp xúc ông A. Ông A có hình dáng cao, trắng ( biểu tượng hiển thị về A) tên A, là đàn ông, chồng của B, cha của C, giám đốc của D ( ngôn ngữ để nói về A). Dựa theo hình dáng và các tên gọi của nhân vật trên, chúng ta có khái niệm về nhân vật A là....
b/ Theo những gì chúng ta được học từ nhà trường, ông A chỉ là tên, thật sự ông A là tổ hợp gồm vật lý, sinh lý và tâm lý.
Ví dụ, chúng ta đang tiếp xúc, nói chuyện, nghe, làm việc với giám đốc A hay người cha tên A nhưng thật sự chúng ta đang tiếp xúc với tổ hợp vật lý, sinh lý, tâm lý đang hoạt động được gọi chung là Ông A. Bởi vì, A là giám đốc của B nhưng là nhân viên của C, là cha của C nhưng là con của B. Tuy tên gọi về A khác nhưng nhưng thực tế chỉ là hoạt động của vật lý, sinh lý và tâm lý.
Tương tự như vậy nhưng thay vì chia thành ba phần như trên, phật học chia tổ hợp này thành năm nhóm, thường được gọi là năm uẩn ( pañcakkhandha: five aggregates: 蘊 uẩn nghĩa là nhóm). Đó là một tập hợp gồm 5 nhóm: sắc uẩn: thân thể vật lý đang hoạt động ( rūpakkhandha : corporeal group); thọ uẩn: nhóm cảm giác ( vedanākkhandha: feeling group); tưởng uẩn: nhóm tri giác ( saññakkhandha: preception group); hành uẩn: nhóm phản ứng của tâm ( sankkhārakkhandha: mental formation group); thức uẩn: nhóm nhận thức từ 6 giác quan ( viññānakkhandha: consciousness group).
Thế thì, câu hỏi đặt ra, chúng ta là gì?
Câu trả lời là, chúng ta thực sự chỉ là sự hoạt động, diễn tiến, không gián đoạn của 5 nhóm trên theo 3 trạng thái vô thường, khổ ( xem lại về khổ trong bài trước), vô ngã, biểu hiện với sinh hoạt của một con người nhưng được trang bị với tên họ là....nickname... con ông...con bà...cha...mẹ...nhân viên...giám đốc... với hình dáng cao, thấp, trắng, đen...và......KHI chúng ta nhận thức về chính mình hay người khác; người khác nhận thức về chúng ta đều dựa trên các khâi niệm do chế định về hình dạng và ngôn ngữ ở trên, đồng hóa thành chính ta hay người khác MÀ KHÔNG BIẾT.
Thế thì, trên hoạt động của 5 nhóm này, tại sao sinh ra đau khổ?
Đức Phật đã tìm ra và trả lời cho chúng ta câu hỏi này.
Ngay trên hoạt động của 5 uẩn nhưng bên ngoài chúng ta bị chi phối bởi những khái niệm do quy ước của loài người, bên trong chúng ta bị chi phối bởi 3 loại phiền não.
Vô minh (avijjā: ignorance): sự hiểu biết trên kiến thức không có chánh kiến. Nghĩa là, ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ của mình, không nhận ra nghiệp thiện hay ác và kết quả của chúng; không nhận ra quan hệ nhân quả của đau khổ và hạnh phúc, luôn sống với những ảo tưởng về chính mình từ những khái niệm chồng chất MÀ CHÚNG TA KHÔNG BIẾT nên luôn nghĩ rằng mình ĐÚNG là như thế.
ÁI ( tanhā: craving, lust, attachment): khao khát, ham muốn, gắn bó với sự hiện hữu của đời sống.
Có 3 loại ái.
Dục ái: khao khát, gắn bó với những nhu cầu thỏa mãn các giác quan với các đối tượng của chúng, không chấp nhận các sự việc đang là mà muốn chúng như đã là hay sẽ là, thuộc tâm si.
Hữu ái: khao khát, gắn bó, lệ thuộc với những gì thích thú đang có, thuộc tâm tham.
Phi hữu ái: khao khát, mong muốn, phản ứng muốn tiêu diệt những gì không thích, thuộc tâm sân.
Từ sự nhận thức bằng vô minh, thúc đẩy ba loại ái này, muốn sự việc đang là phải như đã là hay sẽ là; khao khát lệ thuộc, không muốn mất những gì mình thích thú; phản ứng tức giận, muốn tiêu diệt những gì mình không thích.
Từ vô minh và ái, xuất hiện thủ.
Thủ ( upādāna : clinging) cố chấp, bám chặt.
Có bốn loại thủ.
Dục thủ: bám chặt, lệ thuộc yêu và ghét.
Kiến thủ: bám chặt, lệ thuộc vào các kiến thức từ giới tính, gia đình, trường lớp, văn hóa, xã hội, dân tộc, học thuyểt, chủ thuyết, giáo lý, tôn giáo học, thần thoại, tập tục, luân lý vùng miền....
Giới cấm thủ: bám chặt lệ thuộc vào những kiêng kỵ, tín ngưỡng, giáo điều, tín điều, cầu cúng, khổ hạnh, mê tín, sinh hoạt tôn giáo, chỉ ăn loại thực phẩm gì đó, chỉ mặc y phục hình thức gì đó vv và vv ....cố giữ, kiên trì thực hành những hình thức, sinh hoạt, quy định này với niềm tin mãnh liệt là sẽ không còn đau khổ, đưa đến hạnh phúc, giác ngộ, giải thoát.
Ngã luận thủ: từ sự lệ thuộc, bám chặt vào ba loại thủ trên, hình thành chủ thuyết cá nhân, ý thức hệ và muốn truyền bá cho mọi người theo khả năng, điều kiện và hoàn cảnh của mình.
Nguyên bản con người chúng ta là 5 uẩn nhưng qua sự chi phối của 4 thủ, 5 uẩn trở thành 5 THỦ uẩn ( pañc'upādānakkhandhā: the five aggregates of clinging). Có nghĩa là vô minh, ái và thủ mượn sự hoạt động của 5 uẩn để hình thành bản ngã, TÔI LÀ. Ví dụ dễ hiểu, năm uẩn là con người chúng ta, từ năm thủ uẩn xuất hiện cái bóng nhưng chúng ta lại đồng hóa cái bóng ấy LÀ con người thật của mình. Từ thực thể năm uẩn không phải là ta, của ta, tự ngã của ta thì năm thủ uẩn biến năm uẩn trở thành nhiều cái bóng như diễn viên, người bán hàng, người mua hàng, cha, mẹ, anh, chị, con...tự đồng hóa vào các vai diễn ấy nhưng không biết. Cái tôi, bản ngã CHÍNH LÀ cái bóng này. Trong sự hoạt động của 5 uẩn luôn luôn bị cái tôi này điều động. Chúng ta dùng quan điểm về cái tôi này làm điểm nhìn để quan sát chính mình và thế giới thành tôi, của tôi, tự ngã của tôi và những gì khác chúng.
ĐÂY CHÍNH LÀ THÂN KIẾN.
Từ thân kiến này, khi tiếp xúc với các đối tượng, ba ái xuất hiện và kết quả là ba khổ.
Theo diễn trình sau:
Khi các giác quan tiếp xúc đối tượng, nếu:
a. Phát sinh cảm giác dễ chịu ( nhóm cảm giác) <=> khái niệm dễ chịu về đối tượng phát sinh <=> hữu ái => hoại khổ, đau khổ vì tâm lý lo sợ mất đối tượng, không giữ được...
b.Phât sinh cảm giác khó chịu <=> khái niệm khó chịu về đối tượng phát sinh => khổ khổ, đau khổ vì tâm lý phản ứng, bất mãn, khó chịu vì sự hiện hữu của đối tượng.
c.Phát sinh cảm giác trung tính ( neuter: không dễ chịu, không khó chịu) <=> khái niệm thờ ơ, không biết rõ, không hiểu về đối tượng nên muốn chúng theo ý mình => hành khổ phát sinh, đau khổ vì tâm lý không chấp nhận sự việc "đang là" của đối tượng mà chỉ muốn đối tượng như "đã là" hay " sẽ là" theo ý mình.
Ví dụ
Vì yêu thương con, cha mẹ muốn con phải làm theo ý muốn của họ để được hạnh phúc như họ mong muốn nhưng họ không biết con họ muốn được cái hạnh phúc mà họ cho là đau khổ, thất bại. Thế là mâu thuẫn, đau khổ xuất hiện giữa cha mẹ và con cái.
Đến các trung tâm tôn giáo, tu tập theo pháp môn gì đó, về nhà bắt mọi người phải tu tập theo..thế là khổ mình và khổ người.
Tiếp xúc với mọi người, không chấp nhận những gì họ đang là, muốn cải tạo họ, sửa lưng họ, thuyết giáo, muốn họ như đã là hay sẽ là theo ý muốn của mình. Thế là, mình bị hành khổ, họ bị khổ khổ.
Như những bài viết trước, chúng tôi đã trình bày, muốn nhận ra 5 thủ uẩn thì phải nhận ra 5 uẩn. Muốn nhận ra 5 uẩn thì phải học và thực hành 4 niệm xứ.
Quán thân trên thân, nhận ra sắc uẩn.
Quán thọ trên thọ, nhận ra thọ uẩn.
Quán tâm trên tâm, nhận ra hành uẩn và thức uẩn.
Quán pháp trên pháp thì nhận ra tưởng uẩn.
Khi nhận ra 5 uẩn thì nhận ra vô thường, khổ, vô ngã.
Khi nhận ra VT, K, VN thì ảo tưởng về thân kiến không còn. Khi không còn bị thân kiến chi phối thì không còn lệ thuộc dục ái, hữu ái, phi hữu ái thì không có hành khổ, hoại khổ, khổ khổ.
Ở đây, chúng ta cần hiểu đúng về vô ngã. Ngã hay vô ngã chỉ là những khâi niệm không thật có. Không phải là phàm phu chúng ta có bản ngã, tu tập đến cấp độ nào đó thì không còn bản ngã, đạt đến vô ngã. Không phải vậy, dù Đức Phật hay chúng sinh cũng chẳng có câi bản ngã hay cái vô ngã nào cả. Ngã hay vô ngã chỉ là những khâi niệm giống như cái bóng của chúng ta nhưng chúng ta nghĩ là có thật nên tìm cách chạy thoát nó hay bị lệ thuộc nó hay muốn nó khác đi nên cả đời tự làm khổ mình, khổ người. Đức Phật cũng có cái bóng nhưng Ngài biết rõ nó chỉ là cái bóng nên không xua đuổi, không chạy theo, không muốn nó khác đi, nên Ngài không bị đau khổ.
Kết,
A. Không còn thân kiến.
Không còn thân kiến là nhận ra 5 uẩn.
Khi nhận ra, không còn lệ thuộc thân kiến, chúng ta nhận ra " Ta KHÔNG là ai trong cuộc đời này". Quan sát ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ, chúng ta nhận ra " TA" chỉ là những vai diễn, những giả định mang nhiều tên, nhãn hiệu khâc nhau tùy theo ở đâu, lúc nào, với ai trong sân khấu cuộc đời này mà sự thật chỉ là hoạt động của 5 uẩn luôn thay đổi, mâu thuẫn, hợp tâc nhau theo quy luật nhân + duyên => quả đang chịu sự chi phối của ý chí ( nghiệp). Khi không còn ảo tưởng về mình bằng những nhãn hiệu thì chúng ta sẽ " không còn dại gì" tiếp tục lao đầu lao tâm khổ tứ, mưu thần chước quỷ, thủ đoạn bằng tham sân si, phục vụ, tạo dựng cho " cái ta giả định này". Cuối cùng, chúng ta sẽ phải chết, bỏ lại hết tất cả những gì ân oán, được mất, danh lợi cả cuộc đời mà 5 thủ uẩn đồng hóa là ta, của ta, tự ngã của ta đã cố gắng tạo dựng.
B. Không còn hoài nghi.
Không còn hoài nghi ở đây là có chánh kiến. Khi không còn hoài nghi, có chánh kiến, chúng ta hiểu rõ tất cả thành bại, được mất, giàu nghèo, hạnh phúc, đau khổ đều theo quy luật nhân + duyên => quả + duyên => nhân + duyên=> quả...không gián đoạn.
Lời nói, hành động, ý nghĩ ác ( nhân) từ chủ ý tham, sân, si ( duyên) sẽ đưa đến đau khổ ( quả). Lời nói, hành động, ý nghĩ thiện ( nhân) từ chủ ý không tham, không sân hận, không tà kiến ( duyên) sẽ đưa đến hạnh phúc ( quả).
Nhưng, quả đau khổ và hạnh phúc không phải là thiện hay ác mà:
Từ quả đau khổ + lời nói, hành động, ý nghĩ thiện ( duyên) => quả hạnh phúc.
Từ quả đau khổ + lời nói, hành động, ý nghĩ ác ( duyên) => quả đau khổ.
Từ quả hạnh phúc + lời nói, hành động, ý nghĩ thiện ( duyên)=> quả hạnh phúc.
Từ quả hạnh phúc + lời nói, hành động, ý nghĩ ác ( duyên) => quả đau khổ.
Khi có chánh kiến về nhân, duyên, quả như vậy, chúng ta không còn hoài nghi, không còn lo lắng, sợ hãi, không còn bỏ cả thời gian, vật chất đi đến các đền, chùa, miếu, phủ, điện, am....cầu cúng lễ lạy nhưng THẬT SỰ LÀ MUỐN SAI KHIẾN Phật, Thượng đế, bồ tát, thần thánh, ông này, bà nọ, cậu nọ, cô kia làm công cụ, phải phục vụ, làm thỏa mãn những ước muốn, dục vọng phàm tục của mình.
C. Không còn giới cấm thủ.
Sống theo Bát chánh đạo nghĩa là không có mặt giới cấm thủ.
Cả cuộc đời bị lệ thuộc trong khổ khổ, hoại khổ, hành khổ biểu hiện qua sự bất như ý về sinh, già, bệnh, chết, yêu thương phải xa lìa, ghét nhưng phải tiếp cận, mong muốn nhưng không được, chúng ta muốn giải thoát khỏi chúng, có cuộc sống tự do, không chết. Thế là tôn giáo xuất hiện. Sự có mặt và tồn tại của tôn giáo và tín đồ luôn luôn dựa trên hai chủ đề, hù dọa địa ngục và hứa hẹn thiên đường, tịnh độ.
Từ sự lo sợ địa ngục và mong muốn lên thiên đường, tịnh độ, giác ngộ, giải thoát, niết bàn gì gì đó THEO NIỀM TIN VÀ KHÁI NIỆM CỦA MÌNH, chúng ta cố gắng tìm đến biết bao vị thầy, biết bao giáo thuyết, biết bao trung tâm tu tập từ thành thị đến núi rừng với biết bao hình thức tu tập với vô số sắc thái khâc nhau, nào là khổ hạnh ép xác, nào là tịnh khẩu, nào là cầu nguyện, nào là cố gắng ngồi yên, nào là khống chế các cảm xúc, với mong cầu đạt được kết quả là hạnh phúc, thiên đường, tịnh độ, định tâm, giác ngộ, giải thoát, niết bàn theo đủ thứ DỤC VỌNG TỪ NHỮNG KHÁI NIỆM CỦA CHÍNH MÌNH. Thế là, hành khổ xuất hiện.
Khi học đúng, nhận ra sống theo BÁT CHÁNH ĐẠO với nhóm tuệ gồm chánh kiến, chánh tư duy; nhóm giới gồm chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng; nhóm định gồm chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định ngay trên từng lời nói, hành động, ý nghĩ trong sinh hoạt hằng ngày, trong đời sống theo HOÀN CẢNH, THỜI GIAN CỦA CHÍNH MÌNH, chúng ta không cần tìm ai, đi đâu, vào ở đâu, thực hành các phương pháp xa lạ gì nữa mà tự nhận ra hạnh phúc, bình an, giác ngộ, giải thoát ngay bên trong và chung quanh mình.
Cảm ơn bạn đã đồng hành cùng chúng tôi đến đây và tôi nghĩ rằng bạn đã biết cần làm gì để có hạnh phúc thật sự ở ngay trong hoàn cảnh của mình.
Ghi chú, Trong bài viết này, tôi có xử dụng một số chi tiết trong sách The Noble Eightfold Path của Ngài Bodhi qua bản dịch Việt của chúng tôi.
Chào các học viên, sáng nay, tôi nhận được câu hỏi, lược,
Thưa Thầy, qua những bài viết ngắn của thầy, dần dần con nhận ra bản đồ cho hành trình tu tập ngay trong sinh hoạt. Tuy nhiên, con có câu hỏi:
Nhận ra vô thường, khổ vô ngã để làm gì trên con đường hướng đến đạo quả Dự lưu?
Thưa bạn, thú thật, câu hỏi này, ngoài kinh nghiệm cá nhân, tôi phải nhờ vào kiến thức phật học đã học, cụ thể là diễn giải, copy theo tài liệu phật học chuyên môn.
Để có đáp án cho câu hỏi này, các bạn có thể tham khảo từ hai tài liệu thuộc tạng Abhidhamma _ A tỳ đàm_ Thắng pháp, Đối pháp, Vi diệu pháp của cả hai truyền thống Nam tạng và Bắc tạng, Theravāda với tác phẩm Thắng pháp tập yếu luận_ Abhidhamma Sangaha của Ngài Anuruddhā, chương 9_ Nghiệp xứ và Nhất thiết hữu bộ với tâc phẩm A tỳ đạt ma Câu xá của Ngài Thế Thân, phẩm Định và phẩm Trí.
Ở đây, để giải thích, tôi chỉ dùng Thắng pháp tập yếu, tham khảo và kết hợp Bản dịch Thắng pháp tập yếu của Ngài Minh Châu, Bản dịch Toát yếu Vi diệu pháp của Phạm kim Khánh, A manual of Abhidhamma _ Ven. Narada và bản Vi diệu pháp nhập môn, phần cuối cùng, của Ngài Giác Chánh.
Tôi cố gắng diễn đạt ý chính, ngắn gọn, dễ hiểu cho người mới làm quen về văn học phật học chuyên môn này CÓ KHÁI NIỆM về lộ trình của Bậc Dự Lưu. Với các thuật ngữ phật học, tôi thêm Pāli và English để có cơ sở về ý nghĩa gốc và dễ hiểu cho người biết Anh ngữ.
Theo các bài viết trước của chúng tôi, chúng ta thực hành Tứ Niệm xứ bằng cách ghi nhận, quan sât các hoạt động trên thân, thọ, tâm, pháp để xây dựng, thành lập niệm + tỉnh giác => chánh niệm, nhận ra 5 uẩn. Cụ thể:
Quán thân trong thân, nhận ra sắc uẩn.
Quán thọ trong thọ, nhận ra thọ uẩn.
Quán tâm trong tâm, nhận ra hành uẩn và thức uẩn.
Quán pháp trong pháp, nhận ra tưởng uẩn.
Tại sao phải nhận ra Năm uẩn?
Chúng ta KHÔNG thể nhận ra vô thường, khổ, vô ngã trên những khái niệm về mình ( tục đế) từ 5 THỦ uẩn mà chỉ nhận ra VT, K,VN trên Năm uẩn ( chân đế).
Ví dụ, nếu chúng ta không thấy chiếc xe đang chạy thì không nhận ra sự di chuyển của chiếc xe.
Khi nhận ra:
Vô thường ( anicca _ impermanence) thì đi vào tùy quán ( ānu : liên tục, lặp đi lặp lại) vô thường ( Aniccānupassanā _ the contemplation on impermanence) nhận ra các hiện tượng được nhận thức từ 5 THỦ uẩn đều chỉ là thông tin do tưởng uẩn cấu tạo, sẽ đi vào vô tướng giải thoát môn, không còn bị lệ thuộc vào các điên đảo từ các khái niệm tục đế. ( 3 điên đảo về tướng: tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo)
Khổ ( Dukkhā _ unsatisfactory) thì đi vào tùy quán khổ (Dukkhānupassabā _ the contemplation of unsatisfactory ) nhận ra tất cả 5 uẩn luôn luôn mâu thuẫn nhau, không đồng nhất, luôn nghịch nhau sẽ đi vào vô nguyện hay vô tác giải thoát môn, không còn dục vọng theo ý mình.
Vô ngã ( Anattā _ non-self) thì đi vào tùy quán vô ngã ( Anattānupassanā_ the contemplation of non-self) sẽ đi vào Không tánh giải thoát môn, nhận ra sự vận hành của 5 uẩn đều là quan hệ theo duyên khời, không có cá thể nào điều động cả, không còn ảo tưởng về thân kiến, ngã kiến.
Đến cấp độ này, vị ấy không còn thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ, là Bậc thánh Dự Lưu ( Sotāpanno).
Ghi chú quan trọng.
Ở đây, " khổ _ dukkhā" trong ba trạng thái VT, K, VN thường bị hiểu NHẦM với nghĩa " đau khổ".
Chữ Dukkhā tùy theo văn cảnh mà ý nghĩa khác nhau.
Như chúng ta đã học, pháp chân đế chia thành chân đế hữu vi và chân đế vô vi.
Chân đế hữu vi có 3: sắc ( vật chất), tâm và tâm sở.
Chân đế hữu vi luôn luôn bị chi phối bởi 3 trạng thái VT, Khổ, VN.
Nếu khổ ở đây là đau khổ thì cục đá, khúc gỗ vật chất cũng đau khổ hay sao? Có người lập luận," khổ" ở đây là chúng ta bị "đau khổ" bởi chúng!!! Nhưng, thật sự, chúng ta có bị "đau khổ hay không đau khổ" vì chúng hay không thì tự thân chúng vẫn đang " khổ"
Chúng ta xem lại câu kinh Pháp cú 278
Pāli,
" Sabbe saṅkhārā dukkhā ' ti,
Yadā paññāya passati,
Attha nibbindati dukkhe,
Esa maggo visuddhiyā.
English,
All conditioned things are UNSATISFACTORY.
When one sees this with wisdom,
One turns away from SUFFERING,
This is the path to purification.
Bài kệ này, có nhiều bản dịch Việt, có ý nghĩa chung chung sau.
Các pháp hữu vi là KHỔ ( không đồng nhất, mâu thuẫn, nghịch nhau,)
Khi thấy điều này bằng trí tuệ
Thì không còn ĐAU KHỔ
Đây là con đường thanh tịnh.
Chúng ta xem kệ 278 trên trong bản dịch Anh ngữ, cùng chữ dukkhā nhưng cuối câu 1 dùng chữ unsatisfactory nhưng cuối câu 3 dùng chữ suffering.
Điểm này rẩt quan trọng với việc thực hành Tứ niệm xứ để có chánh niệm, nhận ra 5 uẩn, nhận ra VT, KHỔ, VN. Nếu hiểu khổ là đau khổ thì bị rơi vào quán cảm giác khổ thuộc khổ thọ trong quán thọ trên thọ hay bị rơi vào quán khổ khổ, hoại khổ, hành khổ thuộc về khổ đế của 4 thánh đế trong phần quán phâp trong phâp.
Khổ trong VT, K,VN không phải là sắc, không phải là cảm thọ, không phải là tâm mà là "trạng thái" vận hành của các pháp chân đế hữu vi.
Trên đây, chỉ là lộ trình của bậc Dự Lưu theo kiến thức phật học, giống như tấm bản đồ bằng giấy với những ký hiệu và màu sắc.
Chúng ta không thể đi hay chạy xe trên tấm bản đồ bằng giấy mà phải TỰ MÌNH đi hay lái xe chạy trên con đường thật. Nhưng, chúng ta PHẢI luôn tỉnh táo rằng, những gì xảy ra trên con đường thật SẼ KHÔNG GIỐNG như những ký hiệu trên tấm bản đồ.
Breathe easy !
Don't worry be happy.
Khi có tấm bản đồ đúng, nếu lạc đường sẽ biết lối ra và nhớ đường. Trên con đường thật, có biết bao điều kỳ diệu sinh động sẽ xuất hiện với chúng ta và tất nhiên không giống như tấm bản đồ chỉ có những ký hiệu chết.
Sau khi đọc bài này, có bạn cho ý kiến, bài 3 cửa giải thoát như văn bản, khó thực hành được.
Anh ấy nói đúng vì ngay từ trên, tôi ghi rõ copy và diễn giải từ các tài liệu ở Abhidhamma nhưng nếu CHỊU KHÓ đọc kỹ 6 bài viết, và thực hành theo trình tự từ 1 đến 5 thì Bài 6: Ba cửa giải thoát KHÔNG PHẢI LÀ BÀI THỰC HÀNH mà là KẾT QUẢ từ thực hành 5 bài trước.
Tôi không nghĩ là với 5 bài thực hành trước KHÔNG AI KHÔNG THỂ HIỂU, THỰC HÀNH ĐƯỢC , ngoại trừ họ KHÔNG CÓ NHU CẦU.
Có học viên hỏi tôi,
Thưa thầy, qua những bài đọc trên FB của thầy, con vẫn chưa hiểu thế nào là tu tập ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ. Xin thầy hướng dẫn.
Trả lời,
Chào bạn,
Nếu thực sự có nhu cầu thực hành, bạn chịu khó chiêm nghiệm, thực hành theo các bước sau.
1/ Tạm thời gát một bên tất cả sinh hoạt theo HÌNH THỨC tín ngưỡng tôn giáo, ăn mặc bình thường, không cần thể hiện sự tu tập gì cả.
2/ Thọ trì nghiêm túc Ba quy y và Năm điều học.
Học, hiểu, thuộc 5 điều học và mười nghiệp ác.
Học, hiểu, thuộc 5 yếu tố cho mỗi điều học.
ví dụ: 5 yếu tố phá vỡ điều học không sát sinh, tạo ác nghiệp sát sinh:
1. Sinh vật đang sống,
2. Biết sinh vật đó đang sống,
3. cố ý _ cetana_ volition_ với tham, sân hay si,
4. Tự mình, tạo mọi điều kiện, sai bảo người khác giết sinh vật ấy,
5. Tâm thỏa mãn khi biết sinh vật ấy chết do ý muốn của mình.
Ngay khi phá vỡ điều học ( giới) không sát sinh thì hình thành nghiệp đạo ác sát sinh và âm thầm đưa đến quả báo khi đủ điều kiện.
Đối với 4 điều học còn lại cũng tương tự.
Giới được xây dựng trên việc tránh xa nghiệp ác nên muốn giữ giới phải hiểu nghiệp ác.
Ví dụ điều học: tránh xa sự nói dối. Pāli: musā-vādā (nói dối) veramaņī ( tránh xa). English: to asbtain ( tránh xa) from false speech ( lời nói dối trá).
Muốn học đầy đủ thì liên lạc BĐH lớp học gửi cho link đã học về chủ đề này.
3/Chiêm nghiệm thực hành về các chủ đề : Duyên khởi, Bốn niệm xứ, Bốn thánh đế, thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham và sân ngay trong sinh hoạt với thấy, nghe, ngửi, ăn, tiếp xúc, hành động, làm việc, nói, suy nghĩ.
Chúng ta có 6 giác quan, 6 đối tượng đưa đến 6 nhận thức. Ví dụ: con mắt,hình dáng màu sắc đưa đến thấy....
Trong bài học này, chúng ta chọn ĐANG thấy, ĐANG nghe NGAY KHI nói, hành động, suy nghĩ để ví dụ. Từ đó, các bạn suy luận ra sự tu tập trên hoạt động của các giác quan khác.
Chiêm nghiệm tu tập khi ĐANG THẤY gồm 3 điều kiện: con mắt <+> hình dáng màu sắc => thấy.
Bài A. Quan sát, nhận ra từ Duyên khởi
Cái này CÓ nên cái kia CÓ.
Cái này SINH nên cái kia SINH.
Cái này KHÔNG nên cái kia KHÔNG.
Cái này DIỆT nên cái kia DIỆT.
Con mắt và màu sắc hình dáng CÓ thì mới CÓ thấy.
Mắt và màu, hình hợp tác SINH nên phát SINH sự thấy.
KHÔNG có mắt và hình sắc thì KHÔNG có thấy.
Mắt không hợp tác DIỆT với hình màu thì không còn DIỆT thấy.
Đối với các giác quan khác, nói, hành động, suy nghĩ trong sinh hoạt tự thân, gia đình, xã hội cũng chiêm nghiệm như vậy. Nhận ra chúng chỉ là các yếu tố liên đới theo các điều kiện, không có ta, của ta, tự ngã của ta...từ từ nhận ra thân kiến hay ngã kiến, không còn lệ thuộc nó, sống hòa hợp với chính mình, gia đình và xã hội.
Bài B. Bốn niệm xứ
Thành lập, nuôi dưỡng, phát triển tâm sở niệm => chánh niệm. Bằng cách
a.Quán thân trên thân để nhận ra SẮC UẨN: nhận ra, quan sát KHI ĐANG thấy, đang nghe hay đang tiếp xúc mềm cứng nóng lạnh nặng nhẹ là ĐANG nhận ra sắc uẩn.
b.Quán thọ trên thọ để nhận ra THỌ UẨN: ghi nhận, quan sát cảm giác dễ chịu, khó chịu, trung tính khi ĐANG thấy, ĐANG nghe là ĐANG nhận ra thọ uẩn.
c.Quán tâm trên tâm để nhận ra HÀNH UẨN VÀ THỨC UẨN : NGAY KHI ĐANG thấy, nghe... quan sát, ghi nhận tâm tham hay không tham, sân hay không sân, si hay không si, tập trung hay không tập trung ...phản ứng TỪ cảm giác ( thọ uẩn) và thông tin ( tưởng uẩn). Đó là ĐANG nhận ra hành uẩn và thức uẩn. Thấy, nghe... thuộc về thức uẩn, tham sân si... thuộc về hành uẩn.
d. Quán pháp trên pháp để nhận ra TƯỞNG UẨN với 5 triền cái và 4 thánh đế.
NHẬN RA, QUAN SÁT
_ 5 triền cái khi ĐANG thấy.
Đang thấy nhưng không ghi nhận rõ là "hôn trầm" triền cái
Đang thấy với phân vân là " nghi" TC
Đang thấy với bực mình, tức giận là " sân" TC
Đang thấy với lo lắng lo sợ, hối hận là " trạo hối" TC
Đang thấy với tham muốn, dục vọng là "dục" TC
_ Nhận ra, quan sát 4 thánh đế khi đang thấy_ Thánh đế hiện quán_
NHẬN RA
Đang thấy với khổ khổ, hoại khổ hay hành khổ là ĐANG nhận ra Khổ đế.
Đang thấy với tà kiến hay phi hữu ái,hữu ái, dục ái hay dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ là ĐANG nhận ra Tập đế.
Đang thấy bằng tỉnh giác, chánh niệm, vv là ĐANG nhận ra Đạo đế.
Đang thấy nhưng không lệ thuộc tướng chung, tướng riêng, vắng mặt, không có ba khổ trên là ĐANG nhận ra Diệt đế.
Như thế,
Quán thân nhận ra sắc uẩn
Quán thọ nhận ra thọ uẩn
Quán tâm nhận ra hành uẩn, thức uẩn
Quán pháp nhận ra tưởng uẩn.
Nhận ra 5 uẩn THÌ MỚI nhận ra vô thường, khổ, vô ngã, không còn thân kiến, vắng mặt đau khổ. "Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách."
Bài C.
Nhận ra, quan sát 5 hạ phần kết sử: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham hay sân NGAY KHI ĐANG thấy.
Nhận ra,
Đang thấy với thân kiến là nhận ra kết sử thân kiến.
Đang thấy với hoài nghi là nhận ra kết sử hoài nghi.
Đang thấy với giới cấm thủ là nhận ra kết sử giới cấm thủ.
Đang thấy với tham là nhận ra kết sử tham.
Đang thấy với sân là nhận ra kết sử sân.
Tương tự như vậy, chúng ta nhận ra các pháp NGAY trên KHI ĐANG nghe, ăn, ngửi, nói, hành động, suy nghĩ.
Chỉ cần nhận ra ( không phải suy nghĩ về) đúng chúng, chúng tự sinh tự diệt. Đó là chánh niệm.
Ghi chú quan trọng,
1/ Trình độ, căn cơ, hoàn cảnh mỗi người không giống nhau, chúng ta học tự thực hành theo cách riêng của mình, KHÔNG copy, KHÔNG lệ thuộc ai cả.
2/ Chiêm nghiệm thực hành ngay trong sinh hoạt bình thường hằng ngày, KHÔNG cố gắng thức khuya dậy sớm để tu hành thêm gì cả, KHÔNG tạo hình thức tu tập. Chỉ cần nhận ra, quan sât các phiền não, kết sử, không cần cố gắng diệt trừ chúng vì chúng tự sinh, tự diệt theo quy luật duyên khởi với 3 trạng thái vô thường, khổ, vô ngã.
3/ Không tạo ảo tưởng về mình, thần bí hóa, thần thánh hóa, về sự tu tập của mình, về chứng đắc gì cả. Nếu càng tu tập mà càng thành thật, càng khiêm tốn, càng bình thường hóa, càng dễ chịu, càng vui vẻ, thoải mái, càng thân thiện, càng thân cận với chính mình, gia đình và mọi người, không còn muốn cải tạo ai nữa, nhận ra tham sân si, tà kiến, ngã mạn của chính mình là tu tập đúng, có kết quả.
4/ Đối với lời nói, hành động thì dùng chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Đối với tâm ý thì dùng chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Đức Phật dạy: "Thấy Pháp là thấy Ta, thấy Ta là thấy Pháp".
Trong ngữ cảnh này, Ta không phải chỉ cho cá nhân của Ngài mà là sự giác ngộ, giải thoát.
Pháp chỉ cho chân đế hữu vi và vô vi.
Tham, sân, si...là chân đế hữu vi.
Như vậy, có nghĩa là, khi tu tập nhận ra ( không phải nghĩ về) tham, sân, si ngay trên thân, miệng, ý là đang nhận ra giác ngộ, giải thoát.
Chúc các bạn nhận ra phiền não ( tham, sân, si) là đang nhận ra bồ đề (Bodhi_ giác ngộ)
Chào các anh chị trong lớp học.
Sáng nay, có bạn nhắn tin hỏi t với câu hỏi trên.
T xin chia sẻ theo ý kiến riêng của cá nhân.
Về học phật học, chúng ta nên học tập thể, qua trường lớp hay với các vị thầy chuyên môn về các môn học phật học mà chúng ta cần học nhưng về tu tập thì hoàn toàn theo cá nhân. Mỗi người chúng ta đều có một bài toán đời với thất tình lục dục, tình tiền vui khổ với hoàn cảnh khác nhau theo cuộc sống của riêng ta. Để tìm ra đáp án cho cuộc đời riêng mình theo công thức mà Đức Phật đã dạy nhưng không ai giống ai cả thì không thể tập trung vào một chỗ, cùng giải theo một cách, với những bài toán đời khác nhau. Có nghĩa là, dùng công thức giống nhau nhưng giải các bài toán khác nhau, đáp án khâc nhau thì không thể tập trung lại và làm giống nhau.
Hiện nay, trên mạng xã hội, có quá nhiều giảng sư về đủ thể loại bộ môn về phật pháp cả pháp học và pháp hành. Trăm hoa đua nở.
Chúng ta có thể tạm chia tất cả trăm hoa vào ba nhóm.
1/ Nhóm theo dạng thuyết pháp chung chung kiểu đưa đạo đức tâm lý lồng vào thơ văn, ca hát, câu chuyện vui, hài hước nhưng không chuyên môn về Phật học, không chiều sâu, không mang kiến thức nghiên cứu, trường lớp về phật học mà chủ yếu xoa dịu tâm lý quần chúng, đáp ứng được nhu cầu giảm stress, làm người nghe thích thú, vui, có cảm giác giải tỏa tâm lý trong nhất thời, được gãi ngứa, như đi xem nghe một buổi ca nhạc hay diễn thuyết mang hình thức tôn giáo. Nhóm này được đa số quần chúng theo, ngưỡng mộ. Tuy cách thuyết giảng của họ theo mặt nổi, theo cách đạo đức tâm lý học, không có chiều sâu về phật học nhưng giá trị ở chỗ đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng, niềm vui nhất thời cho số đông không cần học hay thực hành phật học để giải quyết triệt để các nỗi khổ đau. Tuy nhiên, sau những niềm vui, sự thoải mái nhất thời đó, từ hữu ái, hoại khổ xuất hiện.
2/ Nhóm theo dạng thuyểt giảng bằng kiến thức theo sách vở phật học, từ kinh điển, từ abhidhamma hay từ sách theo truyền thống của họ, nhưng những kiến thức phật học đó thuộc về trường lớp, chuyên môn, hàn lâm, dành cho nghiên cứu, cho tăng ni, khó hiểu và xa lạ với đời sống thực tế của quần chúng. Người dạy và người học vẫn nghĩ là hiểu nhưng thật sự họ chỉ tin vì có ai biết rõ các tâm đang hoạt động với nhau như thế nào hay chỉ suy diễn hay chỉ tin theo các bài hoc có trong sách, ai biết 1 sát na là bao lâu, tại sao 17 sát na mà không 16, 18 sát na, tại sao 16 tuệ minh sát mà không 14, tại sao những tư liệu này kinh tạng nguyên thủy không có, họ tin theo sách nhưng nghĩ là hiểu. Có vị hô hào tu tập là phải diệt trừ vô minh, ái, thủ, tham, sân, si...nhưng không nói lên được vô minh...si nghĩa là gì và làm sao diệt được. Mà...tham, sân, si trong mỗi người lại tùy theo lúc nào, ở đâu, với ai mà thể hiện khác nhau thiên hình vạn trạng, không giống như trong bài học, sách vở. Trong phật học, khái niệm " diệt" vô minh, ái, thủ, tham, sân si, (như Diệt đế) không có nghĩa là "tiêu diệt" như một động từ trong Việt ngữ mà diệt theo nội hàm Pāli là Nirodha ( Hán ngữ 滅, English cessation, remainderless) có nghĩa là không còn tồn tại, chấm dứt, không lệ thuộc. Thế thì, theo phật học khái niệm " diệt" vô minh, ái, thủ, tham, sân, si không phải là " tiêu diệt" chúng mà là học hiểu và tu tập nhận ra chúng ở chính ngay lời nói, hành động, ý nghĩ của mình mà khống chế, chuyển hóa theo Bát chánh đạo, không còn lệ thuộc chúng nên chúng không còn tồn tại với chính mình. Nếu hiểu diệt phiền não với nghĩa tiêu diệt chúng thì có nghĩa là bị " đánh tráo" khái niệm từ sự thiếu hiểu biết về phật học.
Vì giảng dạy có cơ sở từ sách phật học chuyên môn nên nhóm này có cả tu sĩ và cư sĩ dạy, được quần chúng ngưỡng mộ, tôn trọng về kiến thức phật học của họ. Tuy nhiên, các môn học thường mang tính cách kiến thức hàn lâm, chuyên môn, cao cấp, xa lạ, không thực tế, không áp dụng được trong sinh hoạt, ngoài niềm tin nhưng người học thấy có lý, có trong sách phật học, nên nghĩ là hiểu mà không biết là tin theo nhận thức của họ. Thế rồi, vì thuộc nhiều kiến thức chuyên môn mang màu sắc tôn giáo, họ dễ dàng tưởng mình đã chứng đắc gì gì đó. Khi trở về cuộc sống đời thường, với gia đình, họ tự mâu thuẫn với chính họ, gia đình và những người chung quanh vì học kiến thức phật học theo sách một đàng mà đời sống thực một nẻo. Thế là, phi hữu ái phát sinh, khổ khổ xuất hiện.
3/ Nhóm theo dạng nổ lực tu tập, hướng dẫn một số quần chúng theo những gì họ đã tiếp thu ở nước ngoài. Không bằng lòng với sự tu tập bình thường trong nước, họ ra nước ngoài, tu tập ở các trung tâm thiền vài tháng, vài năm, giữ giới nghiêm túc, nổ lực chuyên cần hành thiền theo sự hướng dẫn của vị thầy nào đó. Sau khi nghĩ rằng đã có khả năng, sở đắc, sở chứng, họ trở về quê nhà với hoài bảo, niềm tin sẽ giới thiệu, hướng dẫn, khai hóa cho những người ở quê nhà đang tu sai, chưa biết tu tập giải thoát " theo chánh pháp". Trong số này, ngoại trừ những vị có kiến thức, khả năng vững chắc về pháp học, được đào tạo nghiêm túc từ các trường lớp phật học chính quy, số còn lại thì chỉ biết làm theo những gì từ người hướng dẫn nhưng thường tin mà không hiểu vì không có căn bản phâp học. Ở nước ngoài, họ copy một số kiến thức, sinh hoạt, tổ chức ở một số trung tâm thiền mà họ chỉ ở đó, rồi cho đó mới là tu tập đúng, chân truyền chánh pháp. Trong số này, có những người copy lại bản copy tu học không đúng mà không biết lại tin là số một nên mang về quê nhà tận lực truyền bá., giống như họ chỉ ăn một quán phở rồi bảo quán đó ngon nhất, ngồi ghế trong nhà mình tưởng nhà bên cạnh ngồi dưới đất. Thế nên, cách sinh hoạt và hướng dẫn của họ mang nặng hình thức văn hóa tín ngưỡng phật giáo của quốc gia mà họ học nhưng lại cho là chánh pháp. Nhóm này thường được một số phật tử mới tiếp cận Phật giáo Theravāda và một số phật tử Bắc tông sùng thượng, tin theo vì sự hấp dẫn trên hình thức sinh hoạt với vẻ thánh thiện, nghiêm túc của họ. Từ niềm tin đó, phát sinh một số người có cái nhìn tiêu cực về sự tu tập của tăng ni cả hai truyền thống ở VN.
Nếu có dịp, tiếp cận sinh hoạt và sự hướng dẫn của họ, như phải ngồi thiền theo kiểu thế này, kiểu thế kia, như phải bán già hay kiết già, phải tay phải trên tay trái, phải chánh niệm khi đi, khi ăn, khi ngồi vv và vv....tất cả thiền sinh phải sinh hoạt như tu sĩ ở đất nước mà người hướng dẫn đã ở, đã học. Họ hướng dẫn thiền sinh chú trọng nhiều thời gian hành thiền Tứ niệm xứ theo tư thế ngồi như họ đã được học từ người hướng dãn họ cho mọi người.
Khách quan, chúng ta có thể nhận ra:
A. Nếu ngồi thiền phải với tư thế kiết già, bán già, tay phải hay trái đặt trên thì những người bị cụt chân, cụt tay không ngồi thiền được hay sao?
B. Hô hào, kêu gọi mọi người phải hành thiền, đi đứng nằm ngồi, ăn uống, nói năng trong chánh niệm như khẩu hiệu. Thế thì, có nghĩa là mọi người " đã có chánh niệm" và áp dụng khả năng chánh niệm đó vào sinh hoạt???!!! Thưa không!
Chúng ta xem lại tiêu đề của kinh Tứ Niệm xứ Trung bộ kinh 10, Pāli là Satipaṭṭhāna, sati là niệm, paṭṭhāna nghĩa là thành lập, Enlish là establishment, foundation, trong ngữ cảnh này được dịch việt là thành lập, thiết lập niệm hay chánh niệm. Gần đây, từ Vipassanā, English : insight, Việt : minh sát, thường dùng để chỉ cho việc thực hành tứ niệm xứ để có chánh niệm. Từ hai nguồn trên, chúng ta có thể nhận ra, học và thực hành tứ niệm xứ trên thân thọ tâm pháp, có nghĩa là CHƯA CÓ chánh niệm mà ĐANG THÀNH LẬP, XÂY DỰNG chánh niệm. Thế thì, đang học, thực tập để xây dựng chánh niệm mà hô hào mọi người DÙNG chánh niệm trong sinh hoạt, thiền tập???!! Như thế, khâc nào ĐANG tìm cách mua xe, chưa có xe mà bảo xử dụng xe định mua để đi mua xe.
C. Trong kinh Tứ niệm xứ, Đức phật giới thiệu 21 cách để thành lập, xây dựng chánh niệm. Cụ thể, niệm thân 14, niệm thọ 1, niệm tâm 1, niệm pháp 5 . Trong 21 cách này, chỉ có niệm hơi thở trong phần niệm thân, Đức Phật đề cập đến tư thế ngồi. Hai mươi cách còn lại, có thể áp dụng các tư thế khâc nhau.
Thế thì, ở đâu ra chuyện thực hành tứ niệm xứ chú trọng và gần như là với tư thế ngồi. Như thế, từ một phương pháp thực tiễn, tất cả mọi người có thể áp dụng cho sinh hoạt của đời sống, họ biến thành cách sinh hoạt mang hình thức tôn giáo, dành cho sinh hoạt như tu sĩ, xa rời sinh hoạt cá nhán, gia đình, xã hội, tự dựng ra phương pháp cục bộ, không đúng lời Đức phật dạy, mà không biết.
Thế là, cả người hướng dẫn và người học cùng nhau cố gắng nhiệt tình thực hành những phương phâp tự suy diễn để "mong muốn" mau mau giác ngộ, giải thoát theo khâi niệm của họ, hành khổ xuất hiện.
Kết,
Tùy theo nhu cầu, hoàn cảnh, các bạn có thể tham khảo, học với cả ba nhóm trên nhưng tu tập thì phải tự cá nhân của mình.
Tự tu như thế nào?
Học và hiểu đúng về Tứ niệm xứ, Bát chánh đao.
Giữ Ba quy y, Năm điều học. ( Học, hiểu, thuộc lòng 5 yếu tố cho mỗi điều học)
Tạm ngưng các sự tu tập mang hình thức tôn giáo, giáo điều cục bộ, tập thể.
Tự mình nhận ra tham, sân, si, tà kiến, ngã mạn từ lời nói, hành động, ý nghĩ của mình trong sinh hoạt.
Đối với bên ngoài, dùng chánh ngữ, chánh nghiệp, chânh mạng để khống chế lời nói, hành động ác.
Đối với ý nghĩ xấu ác nội tâm, dùng chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định để nhận ra, khống chế, hóa giải, không lệ thuộc.
Soi sáng hành động, lời nói, ý nghĩ đang tạo nghiệp thiện hay ác bằng chánh kiến, chánh tư duy.
Trước khi Nhập Đại Niết Bàn, Đức Phật dạy rõ, hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, y cứ vào chính mình, y cứ vào pháp, không y cứ vào ai cả.
Đây là câu Đức Phật trả lời cho các bạn.
Sau hai bài viết ngắn về học và thực hành lời Đức Phật dạy trong sinh hoạt, có vài bạn gửi tin hỏi chúng tôi với vài chi tiết khác nhau.
Chúng tôi góp lại thành một câu hỏi chung, đại khái:
Thưa thầy, chúng con được các bạn đạo giới thiệu, khuyến khích nên:
Học Duy thức học,
Học Vi diệu pháp
Đi sang Miến điện học và hành thiền.
Đến các trường thiền tham dự các khóa thiền Tứ niệm xứ... dài ngày.
Gặp các vị thầy nổi tiếng để khai ngộ
VV và VV
Thưa thầy, chúng con rất hoang mang, một phần vì nhiều thông tin khác nhau, không biết nên học gì, đi đến đâu; một phần vì hoàn cảnh hiện nay phải lo cho bản thân, cha mẹ, chồng, vợ, con nên không có thời gian để học các môn học đó và cũng chưa rời khỏi gia đình được; một phần điều kiện kinh tế hiện nay và thời gian của chúng con chưa cho phép học hay làm theo những giới thiệu trên, dù có muốn. Xin thầy có thể gợi ý trong lúc này, chúng con nên làm gì?
Trả lời,
Chào các bạn. Tôi đã từng học và dạy cho các Tăng Ni các môn học trên ở trường Phật học nhưng mục đích học để có kiến thức, làm bài tập, thi cử, lấy bằng cấp chứ chưa biết vị nào có thực hành và có kết quả hay không.
Tôi cũng đã từng ở trường thiền ở Miến điện nhưng chỉ học được cách tổ chức rất hay của họ. Nếu chưa có căn bản đúng về pháp học, nhất là kiến thức đúng về Tứ niệm xứ, 37 phẩm trợ đạo, Bát chánh đạo mà vào sinh hoạt ở các trường thiền thì cũng như đi một kỳ an dưỡng với sinh hoạt mang hình thức tôn giáo. Những nơi đó, thường thì, họ không dạy pháp học mà chỉ thực hành, trình pháp. Trong môi trường " KHÔNG ai làm phiền mình, yên lặng, không tiếp xúc, không làm việc gì cả, chỉ thiền hành và thiền tọa" thì những ngộ nhận về tu chứng sẽ dễ dàng xảy ra cho thiền sinh. Nếu không học kiến thức về lái xe thì làm sao tập lái xe cho đúng, ngoài cảm giác thích thú ngồi trong xe. Chưa nói đến, với cái nhìn của cá nhân, tôi tự hỏi, một đất nước mà nhìn ở đâu cũng thấy chóp tháp chùa, tăng ni khắp nơi, trường thiền khắp nơi, những người lãnh đạo đều là phật tử, đã từng sinh hoạt trong các môi trường phật giáo nhưng tại sao tình hình chính trị trên đất nước của họ rất phức tạp, bất ổn.
Thế nên, tôi cũng chẳng biết nên khuyên các bạn học gì, theo ai. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn nơi để trả lời các câu hỏi trên. Chúng ta xem lại Đức Phật đã giới thiệu giáo pháp của Ngài cho chúng ta như thế nào.
Nguyên văn Pāli : " Svākkhāto Bhagavatā Dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opanayiko, Paccttam veditabbo viññūhī 'ti."
Từ ngữ Pāli _ Việt
Svākkhāta : giảng dạy hoàn hảo, trọn vẹn.
Akkhati: giảng dạy
Dhamma : giáo pháp
Bhagavato: Đức Thế tôn
Sandiṭṭhika: ngay ở đây, thiết thực
Akālika : ngay hiện tại, phi thời gian.
Ehipassika : hãy tự nhận ra, tự đến để thấy, mời gọi đến để nhận ra.
Passati : thấy, nhận ra
Opanāyika: hướng thượng.
Paccattam : tự mình, mỗi người, cá nhân
Veditabba : nhận thức, hiểu rõ
Viññū : người hiểu biết, người có trí.
Đoạn kinh văn trên, có nhiều bản dịch Việt, lấy ý chung, có thể tạm dịch,
" Các pháp mà Đức Thế tôn đã thuyết giảng một cách hoàn hảo. Pháp ấy đang có ngay ở đây, ngay trong hiện tại, hãy tự thấy ra, nhận ra, có khả năng hướng thượng, người có hiểu biết tự mình nhận ra."
Bản dịch Anh ngữ của Ngài Boddhi
" The Buddha says that the Dhamma, the ultimate truth of things, is directly visible, timeless, calling out to be approached and seen...( He says further that it is always available to us, and that the place where it is to be realized is within oneself."
( The Noble Eightfold Path_ page 75. Bản dịch Việt Bát chánh đạo của chúng tôi trang 157)
Theo đoạn kinh văn trên, chúng ta thấy, Đức Phật dạy rằng, giáo pháp mà Ngài đã dạy " luôn luôn đang có mặt chung quanh" chúng ta, đang mời gọi chúng ta thấy, nhận ra, không cần đi đâu cả.
Bước đầu, các bạn có thể học đúng trên lý thuyết về Bốn thánh đế, 37 phẩm trợ đạo, Bát chánh đạo, Tứ niệm xứ là những giáo pháp căn bản do Đức Phật dạy làm nền tảng cho tất cả các truyền thống, tông phái Phật giáo đã và đang có mặt trên thế giới.
Chúng ta học các giáo pháp trên với 3 bước.
Bước 1, thuộc và hiểu đúng ý nghĩa căn bản của chúng theo từ vựng, nên tham khảo ý nghĩa theo Sanskrit và Pāli, thêm English cho rõ. Nếu được, các bạn nên tra cứu ở các từ điển Phật học đáng tin cậy. Nên tham khảo các vị thầy "có chuyên môn" về lĩnh vực này.
Bước 2, Nhận ra các giáo pháp ấy ngay trong đời sống của chính mình ; giống như Đức Phật đang dạy trực tiếp cho mình.
Bước 3, chiêm nghiệm, áp dụng kiến thức về giáo pháp đã học ngay trên sinh hoạt bình thường hằng ngày của chính mình mà KHÔNG CÓ bất cứ hình thức tôn giáo, giáo điều, khuôn mẫu gì cả ĐỂ NHẬN RA PHÁP.
Ví dụ, NGAY trên sinh hoạt của CHÍNH MÌNH, các bạn có thể nhận ra PHÁP như là tham, sân, si, dục ái, hữu ái, phi hữu ái, khổ khổ, hành khổ, hoại khổ, thân, thọ, tâm, pháp, yếu tố nào trong 37 phẩm trợ đạo, đế nào trong 4 thánh đế, thành tố nào trong Bát chánh đạo NGAY KHI các bạn ĐANG thấy, nghe, ăn, ngửi, tiếp xúc, nói, hành động, suy nghĩ vv.vv...
Đây chính là " Nhờ vào giáo pháp, tự mình nhận ra pháp, thấy pháp ngay ở đây và bây giờ".
Đức Phật dạy:" Ai thấy Pháp là thấy Ta. Ai thấy Ta là thấy Pháp."
Mà, tham, sân, si cũng là Pháp.
Chúc các bạn học và nhờ giáo pháp, tự mình nhận ra pháp ngay trong chính sinh hoạt của mình mà không cần đi tìm ở đâu cả.
Thưa Thầy
Nhận ra, không còn lệ thuộc thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ có giúp được gì cho đời sống thực tế với cơm áo gạo tiền, hạnh phúc và đau khổ cho bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội không?
Sau khi đọc các bài viết ngắn về trình tự tu tập của người phật tử, có bạn trong lớp học gửi cho chúng tôi câu hỏi trên.
Chào bạn,
Cảm ơn câu hỏi rất thực tế và có chiều sâu của bạn. Để hợp tác chia sẻ đáp án về câu hỏi này, trước tiên, chúng ta cần phải hiểu rõ thế nào là thân kiến ( sakkāyaditthi: personality view) , hoài nghi ( vicikicchā: doubt), giới cấm thủ ( sīlabbata parāmāsa: clinging to mere rules and rituals) theo đúng ý nghĩa nội hàm của chúng. Sau đó, chúng ta cần nhận ra sự ảnh hưởng tiêu cực và tác hại của chúng như thế nào trong sinh hoạt của chúng ta. Cuối cùng, bằng cách gì nhận ra, không lệ thuộc chúng và có hạnh phúc từ sự không lệ thuộc chúng ngay trong hoàn cảnh của chính mình.
Tôi sẽ cố gắng trình bày cực kỳ đơn giản, dễ hiểu, không quá chuyên môn, trường lớp. Tôi nghĩ nếu bạn thực sự có nhu cầu như câu hỏi thì chịu khó đọc kỹ, bạn sẽ hiểu và tự giải quyết được vấn nạn này.
Chúng ta cùng nhau đi từng bước,
Hai lĩnh vực của sự vật: Sự thật quy ước và sự thật tự thân của sự vật.
Theo tâm lý học ( Abhidhamma) của Phật học, chia nội thân của chúng ta và ngoại cảnh thành hai lĩnh vực sự thật.Đó là sự thật theo ngôn ngữ, biểu tượng quy ước ( sammutisacca: tục đế: 俗諦: conventional truth: quỹ sinh vật giải) và sự thật tự thân của sự vật ( paramatthasacca: chân đế: 真諦: ultimate truth: nhậm trì tự tánh)
Lĩnh vực sự thật trên nhận thức do chế định, quy ước, quy định của loài người đặt ra tạo thành khâi niệm của chúng ta, thể hiện bằng ngôn ngữ và biểu tượng, tùy theo hoàn cảnh. Ví dụ, chúng ta đang tiếp xúc ông A. Ông A có hình dáng cao, trắng ( biểu tượng hiển thị về A) tên A, là đàn ông, chồng của B, cha của C, giám đốc của D (ngôn ngữ để nói về A). Dựa heo hình dáng và các tên gọi của nhân vật trên, chúng ta có khái niệm về nhân vật A là....
Theo những gì chúng ta được học từ nhà trường, ông A chỉ à tên, thật sự ông A là tổ hợp gồm vật lý, sinh lý và tâm lý.
Ví dụ, chúng ta đang tiếp xúc, nói chuyện, nghe, làm việc với giám đốc A hay người cha tên A nhưng thật sự chúng ta đang tiếp xúc với tổ hợp vật lý, sinh lý, tâm lý đang hoạt động được gọi chung là Ông A. Bởi vì, A là giám đốc của B nhưng là nhân viên của C, là cha của C nhưng là con của B. Tuy tên gọi về A khác nhưng nhưng thực tế chỉ là hoạt động của vật lý, sinh lý và tâm lý.
Tương tự như vậy nhưng thay vì chia thành ba phần như trên, Phật học chia tổ hợp này thành năm nhóm, thường được gọi là năm uẩn ( pañcakkhandha: five aggregates: 蘊 uẩn nghĩa là nhóm). Đó là một tập hợp gồm 5 nhóm: sắc uẩn: thân thể vật lý đang hoạt động ( rūpakkhandha : corporeal group); thọ uẩn: nhóm cảm giác ( vedanākkhandha: feeling group); tưởng uẩn: nhóm tri giác ( saññakkhandha: preception group); hành uẩn: nhóm phản ứng của tâm ( sankkhārakkhandha: mental formation group); thức uẩn: nhóm nhận thức từ 6 giác quan ( viññānakkhandha: consciousness group).
Thế thì, câu hỏi đặt ra, chúng ta là gì?
Câu trả lời là, chúng ta thực sự chỉ là sự hoạt động, diễn tiến, không gián đoạn của 5 nhóm trên theo 3 trạng thái vô thường, khổ ( xem lại về khổ trong bài trước), vô ngã, biểu hiện với sinh hoạt của một con người nhưng được trang bị với tên họ là....nickname... con ông...con bà...cha...mẹ...nhân viên...giám đốc... với hình dáng cao, thấp, trắng, đen...và......KHI chúng ta nhận thức về chính mình hay người khác; người khác nhận thức về chúng ta đều dựa trên các khâi niệm do chế định về hình dạng và ngôn ngữ ở trên, đồng hóa thành chính ta hay người khác MÀ KHÔNG BIẾT.
Thế thì, trên hoạt động của 5 nhóm này, tại sao sinh ra đau khổ?
Đức Phật đã tìm ra và trả lời cho chúng ta câu hỏi này.
Ngay trên hoạt động của 5 uẩn nhưng bên ngoài chúng ta bị chi phối bởi những khái niệm do quy ước của loài người, bên trong chúng ta bị chi phối bởi 3 loại phiền não.
Vô minh (avijjā: ignorance): sự hiểu biết trên kiến thức không có chánh kiến. Nghĩa là, ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ của mình, không nhận ra nghiệp thiện hay ác và kết quả của chúng; không nhận ra quan hệ nhân quả của đau khổ và hạnh phúc, luôn sống với những ảo tưởng về chính mình từ những khái niệm chồng chất MÀ CHÚNG TA KHÔNG BIẾT nên luôn nghĩ rằng mình ĐÚNG là như thế.
ÁI ( tanhā: craving, lust, attachment): khao khát, ham muốn, gắn bó với sự hiện hữu của đời sống.
Có 3 loại ái.
Dục ái: khao khát, gắn bó với những nhu cầu thỏa mãn các giác quan với các đối tượng của chúng, không chấp nhận các sự việc đang là mà muốn chúng như đã là hay sẽ là, thuộc tâm si.
Hữu ái: khao khát, gắn bó, lệ thuộc với những gì thích thú đang có, thuộc tâm tham.
Phi hữu ái: khao khát, mong muốn, phản ứng muốn tiêu diệt những gì không thích, thuộc tâm sân.
Từ sự nhận thức bằng vô minh, thúc đẩy ba loại ái này, muốn sự việc đang là phải như đã là hay sẽ là; khao khát lệ thuộc, không muốn mất những gì mình thích thú; phản ứng tức giận, muốn tiêu diệt những gì mình không thích.
Từ vô minh và ái, xuất hiện thủ.
Thủ ( upādāna : clinging) cố chấp, bám chặt.
Có bốn loại thủ.
Dục thủ: bám chặt, lệ thuộc, yêu và ghét.
Kiến thủ: bám chặt, lệ thuộc vào các kiến thức từ giới tính, gia đình, trường lớp, văn hóa, xã hội, dân tộc, học thuyểt, chủ thuyết, giáo lý, tôn giáo học, thần thoại, tập tục, luân lý vùng miền....
Giới cấm thủ: bám chặt lệ thuộc vào những kiêng kỵ, tín ngưỡng, giáo điều, tín điều, cầu cúng, khổ hạnh, mê tín, sinh hoạt tôn giáo, chỉ ăn loại thực phẩm gì đó, chỉ mặc y phục hình thức gì đó vv và vv.... cố giữ, kiên trì thực hành những hình thức, sinh hoạt, quy định này với niềm tin mãnh liệt là sẽ không còn đau khổ, đưa đến hạnh phúc, giác ngộ, giải thoát.
Ngã luận thủ: từ sự lệ thuộc, bám chặt vào ba loại thủ trên, hình thành chủ thuyết cá nhân, ý thức hệ và muốn truyền bá cho mọi người theo khả năng, điều kiện và hoàn cảnh của mình.
Nguyên bản con người chúng ta là 5 uẩn nhưng qua sự chi phối của 4 thủ, 5 uẩn trở thành 5 THỦ uẩn ( pañc'upādānakkhandhā: the five aggregates of clinging). Có nghĩa là vô minh, ái và thủ mượn sự hoạt động của 5 uẩn để hình thành bản ngã, TÔI LÀ. Ví dụ dễ hiểu, năm uẩn là con người chúng ta, từ năm thủ uẩn xuất hiện cái bóng nhưng chúng ta lại đồng hóa cái bóng ấy LÀ con người thật của mình. Từ thực thể năm uẩn không phải là ta, của ta, tự ngã của ta thì năm thủ uẩn biến năm uẩn trở thành nhiều cái bóng như diễn viên, người bán hàng, người mua hàng, cha, mẹ, anh, chị, con...tự đồng hóa vào các vai diễn ấy nhưng không biết. Cái tôi, bản ngã CHÍNH LÀ cái bóng này. Trong sự hoạt động của 5 uẩn luôn luôn bị cái tôi này điều động. Chúng ta dùng quan điểm về cái tôi này làm điểm nhìn để quan sát chính mình và thế giới thành tôi, của tôi, tự ngã của tôi và những gì khác chúng.
ĐÂY CHÍNH LÀ THÂN KIẾN.
Từ thân kiến này, khi tiếp xúc với các đối tượng, ba ái xuất hiện và kết quả là ba khổ.
Theo diễn trình sau:
Khi các giác quan tiếp xúc đối tượng, nếu:
Phát sinh cảm giác dễ chịu (nhóm cảm giác) <=> khái niệm dễ chịu về đối tượng phát sinh <=> hữu ái => hoại khổ, đau khổ vì tâm lý lo sợ mất đối tượng, không giữ được...
Phát sinh cảm giác khó chịu <=> khái niệm khó chịu về đối tượng phát sinh => khổ khổ, đau khổ vì tâm lý phản ứng, bất mãn, khó chịu vì sự hiện hữu của đối tượng.
Phát sinh cảm giác trung tính ( neutral: không dễ chịu, không khó chịu) <=> khái niệm thờ ơ, không biết rõ, không hiểu về đối tượng nên muốn chúng theo ý mình => hành khổ phát sinh, đau khổ vì tâm lý không chấp nhận sự việc "đang à" của đối tượng mà chỉ muốn đối tượng như "đã là" hay " sẽ là" theo ý mình.
Ví dụ:
Vì yêu thương con, cha mẹ muốn con phải làm theo ý muốn của họ để được hạnh phúc như họ mong muốn nhưng họ không biết con họ muốn được cái hạnh phúc mà họ cho là đau khổ, thất bại. Thế là mâu thuẫn, đau khổ xuất hiện giữa cha mẹ và con cái.
Đến các trung tâm tôn giáo, tu tập theo pháp môn gì đó, về nhà bắt mọi người phải tu tập theo..thế là khổ mình và khổ người.
Tiếp xúc với mọi người, không chấp nhận những gì họ đang là, muốn cải tạo họ, sửa lưng họ, thuyết giáo, muốn họ như đã là hay sẽ là theo ý muốn của mình. Thế là, mình bị hành khổ, họ bị khổ khổ.
Như những bài viết trước, chúng tôi đã trình bày, muốn nhận ra 5 thủ uẩn thì phải nhận ra 5 uẩn. Muốn nhận ra 5 uẩn thì phải học và thực hành 4 niệm xứ.
Quán thân trên thân, nhận ra sắc uẩn.
Quán thọ trên thọ, nhận ra thọ uẩn.
Quán tâm trên tâm, nhận ra hành uẩn và thức uẩn.
Quán pháp trên pháp thì nhận ra tưởng uẩn.
Khi nhận ra 5 uẩn thì nhận ra vô thường, khổ, vô ngã.
Khi nhận ra VT, K, VN thì ảo tưởng về thân kiến không còn. Khi không còn bị thân kiến chi phối thì không còn lệ thuộc dục ái, hữu ái, phi hữu ái thì không có hành khổ, hoại khổ, khổ khổ.
Ở đây, chúng ta cần hiểu đúng về vô ngã. Ngã hay vô ngã chỉ là những khâi niệm không thật có. Không phải là phàm phu chúng ta có bản ngã, tu tập đến cấp độ nào đó thì không còn bản ngã, đạt đến vô ngã. Không phải vậy, dù Đức Phật hay chúng sinh cũng chẳng có câi bản ngã hay cái vô ngã nào cả. Ngã hay vô ngã chỉ là những khâi niệm giống như cái bóng của chúng ta nhưng chúng ta nghĩ là có thật nên tìm cách chạy thoát nó hay bị lệ thuộc nó hay muốn nó khác đi nên cả đời tự làm khổ mình, khổ người. Đức Phật cũng có cái bóng nhưng Ngài biết rõ nó chỉ là cái bóng nên không xua đuổi, không chạy theo, không muốn nó khác đi, nên Ngài không bị đau khổ.
Kết,
Không còn thân kiến.
Không còn thân kiến là nhận ra 5 uẩn.
Khi nhận ra, không còn lệ thuộc thân kiến, chúng ta nhận ra " Ta KHÔNG là ai trong cuộc đời này". Quan sát ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ, chúng ta nhận ra " TA" chỉ là những vai diễn, những giả định mang nhiều tên, nhãn hiệu khâc nhau tùy theo ở đâu, lúc nào, với ai trong sân khấu cuộc đời này mà sự thật chỉ là hoạt động của 5 uẩn luôn thay đổi, mâu thuẫn, hợp tâc nhau theo quy luật nhân + duyên => quả đang chịu sự chi phối của ý chí ( nghiệp). Khi không còn ảo tưởng về mình bằng những nhãn hiệu thì chúng ta sẽ " không còn dại gì" tiếp tục lao đầu lao tâm khổ tứ, mưu thần chước quỷ, thủ đoạn bằng tham sân si, phục vụ, tạo dựng cho "cái ta giả định này". Cuối cùng, chúng ta sẽ phải chết, bỏ lại hết tất cả những gì ân oán, được mất, danh lợi cả cuộc đời mà 5 thủ uẩn đồng hóa là ta, của ta, tự ngã của ta đã cố gắng tạo dựng.
Không còn hoài nghi.
Không còn hoài nghi ở đây là có chánh kiến. Khi không còn hoài nghi, có chánh kiến, chúng ta hiểu rõ tất cả thành bại, được mất, giàu nghèo, hạnh phúc, đau khổ đều theo quy luật nhân + duyên => quả + duyên => nhân + duyên=> quả...không gián đoạn.
Lời nói, hành động, ý nghĩ ác ( nhân) từ chủ ý tham, sân, si (duyên) sẽ đưa đến đau khổ (quả). Lời nói, hành động, ý nghĩ thiện (nhân) từ chủ ý không tham, không sân hận, không tà kiến ( duyên) sẽ đưa đến hạnh phúc ( quả).
Nhưng, quả đau khổ và hạnh phúc không phải là thiện hay ác mà:
Từ quả đau khổ + lời nói, hành động, ý nghĩ thiện ( duyên) => quả hạnh phúc.
Từ quả đau khổ + lời nói, hành động, ý nghĩ ác ( duyên) => quả đau khổ.
Từ quả hạnh phúc + lời nói, hành động, ý nghĩ thiện ( duyên)=> quả hạnh phúc.
Từ quả hạnh phúc + lời nói, hành động, ý nghĩ ác ( duyên) => quả đau khổ.
Khi có chánh kiến về nhân, duyên, quả như vậy, chúng ta không còn hoài nghi, không còn lo lắng, sợ hãi, không còn bỏ cả thời gian, vật chất đi đến các đền, chùa, miếu, phủ, điện, am....cầu cúng lễ lạy nhưng THẬT SỰ LÀ MUỐN SAI KHIẾN Phật, Thượng đế, bồ tát, thần thánh, ông này, bà nọ, cậu nọ, cô kia làm công cụ, phải phục vụ, làm thỏa mãn những ước muốn, dục vọng phàm tục của mình.
Không còn giới cấm thủ
Sống theo Bát chánh đạo nghĩa là không có mặt giới cấm thủ.
Cả cuộc đời bị lệ thuộc trong khổ khổ, hoại khổ, hành khổ biểu hiện qua sự bất như ý về sinh, già, bệnh, chết, yêu thương phải xa lìa, ghét nhưng phải tiếp cận, mong muốn nhưng không được, chúng ta muốn giải thoát khỏi chúng, có cuộc sống tự do, không chết. Thế là tôn giáo xuất hiện. Sự có mặt và tồn tại của tôn giáo và tín đồ luôn luôn dựa trên hai chủ đề, hù dọa địa ngục và hứa hẹn thiên đường, tịnh độ.
Từ sự lo sợ địa ngục và mong muốn lên thiên đường, tịnh độ, giác ngộ, giải thoát, niết bàn gì gì đó THEO NIỀM TIN VÀ KHÁI NIỆM CỦA MÌNH, chúng ta cố gắng tìm đến biết bao vị thầy, biết bao giáo thuyết, biết bao trung tâm tu tập từ thành thị đến núi rừng với biết bao hình thức tu tập với vô số sắc thái khác nhau, nào là khổ hạnh ép xác, nào là tịnh khẩu, nào là cầu nguyện, nào là cố gắng ngồi yên, nào là khống chế các cảm xúc, với mong cầu đạt được kết quả là hạnh phúc, thiên đường, tịnh độ, định tâm, giác ngộ, giải thoát, niết bàn theo đủ thứ DỤC VỌNG TỪ NHỮNG KHÁI NIỆM CỦA CHÍNH MÌNH. Thế là, hành khổ xuất hiện.
Khi học đúng, nhận ra sống theo BÁT CHÁNH ĐẠO với nhóm tuệ gồm chánh kiến, chánh tư duy; nhóm giới gồm chánh ngữ, chánh nghiệp,chánh mạng; nhóm định gồm chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định ngay trên từng lời nói,hành động, ý nghĩ trong sinh hoạt hằng ngày, trong đời sống theo HOÀN CẢNH, THỜI GIAN CỦA CHÍNH MÌNH, chúng ta không cần tìm ai, đi đâu, vào ở đâu, thực hành các phương pháp xa lạ gì nữa mà tự nhận ra hạnh phúc, bình an, giác ngộ, giải thoát ngay bên trong và chung quanh mình.
Cảm ơn bạn đã đồng hành cùng chúng tôi đến đây và tôi nghĩ rằng bạn đã biết cần làm gì để có hạnh phúc thật sự ở ngay trong hoàn cảnh của mình.
Ghi chú, Trong bài viết này, tôi có xử dụng một số chi tiết trong sách The Noble Eightfold Path của Ngài Bodhi qua bản dịch Việt của chúng tôi.
Thưa thầy, là một phật tử với đời sống đầy lo toan, bận rộn, trách nhiệm, bổn phận với công việc cho bản thân, gia đình, xã hội; như vậy, bằng cách cụ thể gì chúng con có thể nhận ra 5 hạ phần kiết sử ( giác ngộ) và thực hành bằng Bát chánh đạo để không còn lệ thuộc chúng ( giải thoát)?
Sau khi đọc bài chia sẻ về chủ đề " các cấp bậc chứng đắc", có học viên gửi đến chúng tôi câu hỏi trên.
Trả lời,
1/ Đầu tiên, chúng ta phải học và hiểu thật đúng ý nghĩa nội hàm ( connotation) trên lý thuyết về 5 hạ phần kiết sử là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham và sân; về tám thành tố của Bát chánh đạo.
2/ Tạm thời gát các sinh hoạt theo tín ngưỡng tôn giáo qua một bên, kể cả việc cố gắng ngồi thiền, các hình thức sinh hoạt như những người xuất gia. Không cần làm thêm bất kỳ sự tu tập gì có hình thức.
3/ Giữ Ba quy y và Năm học xứ trong sạch. Nếu vi phạm thì tự can đảm nhận ra và tự sám hối.
4/ Từ khi thức dậy, đánh răng, ăn sáng, làm việc ....cho đến khi đi ngủ, luôn luôn lặng lẽ ghi nhận và quan sát hành động, lời nói, ý nghĩ của chính mình ( không cần cố gắng gì cả).
Về lời nói, hành động:
Khi nhận ra lời nói, hành động nào sẽ phát ra hay đang nói, đang làm từ thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham hay sân thì dùng chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng ngăn lại. Nếu đã nói, đã làm thì dùng chânh kiến, chánh tư duy nhận ra các nghiệp ác đã nói, đã làm. Chỉ cần nhận ra và quan sát chúng, không cần làm thêm gì cả vì chúng tự sinh tự diệt theo ba trạng thái vô thường, khổ, vô ngã.
Về ý nghĩ:
Khi nhận ra ý nghĩ bất thiện nào phát sinh từ thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham, sân thì dùng chánh tinh tấn dừng lại, dùng chánh niệm, quán tâm hay quán pháp trên tứ niệm xứ để quan sát, nhận ra vô thường, khổ, vô ngã trên chúng, dùng chánh định để hóa giải, ly dục ly bất thiện pháp, không còn lệ thuộc.
5/ Chú ý quan trọng, khi thực hành không cố gắng gì cả, không mong kết quả gì cả, ngay khi nhận ra, quan sát chúng và xử lý bằng bát chánh đạo thì chính là kết quả.
Bắt đầu và tiếp tục, tiếp tục bắt đầu...
Chào các học viên lớp học " Phật pháp trong sinh hoạt"
Chúng ta đã đồng hành đến chương X " Các cấp bậc chứng đắc" trong sách Hợp tuyển lời Phật dạy từ kinh tạng Pāli của Ngài Bhikkhu Bodhi.
Chứng đắc ở đây là giác ngộ và giải thoát.
Để hiểu thế nào về khái niệm giác ngộ và giải thoát, chúng ta có thể cùng nhau chia sẻ các câu hỏi sau:
1/ Giác ngộ và giải thoát hay giải thoát và giác ngộ?
Câu trả lời, có giác ngộ mới giải thoát như có hiểu biết mới không bị lệ thuộc.
2/ Giác ngộ và giải thoát có tùy thuộc dân tộc, màu da, giới tính, trình độ, tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh, xuất gia hay tại gia, thời gian học và tu tập theo giáo pháp ngắn dài không?
Câu trả lời là không.
Theo những sự việc, câu chuyện được ghi lại kinh tạng Nguyên thủy, chúng ta không khó nhận ra sự giác ngộ và giải thoát của các đệ tử của Đức Phật hoàn toàn không tùy thuộc vào dân tộc, màu da, giới tính, trình độ, tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh, xuất gia hay tại gia, thời gian học và thực hành giáo pháp ngắn hay dài.
3/ Như vậy, sự giác ngộ và giải thoát của mỗi cá nhân y cứ vào đâu?
Câu trả lời, từ những bài kinh sẽ học trong chương X, chúng ta có thể thấy họ giác ngộ và giải thoát từ phát nguyện nhận và giữ Tam quy, Năm giới, học đúng giáo pháp, cụ thể là 4 thánh đế, 37 phẩm trợ đạo, bát chánh đạo, nổ lực vào chính bản thân, y cứ vào pháp ở trên, không y cứ vào ai cả.
4/ Như thế, họ đã giác ngộ những gì và giải thoát những gì?
Câu trả lời là,
A. Họ nhận ra, giác ngộ thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ và không còn lệ thuộc, giải thoát khỏi chúng, được gọi là Bậc thánh Dự lưu hay Nhập lưu, vĩnh viễn không còn bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và A tu la. Trong đời này, nếu họ chưa giải thoát sinh tử luân hồi, chỉ còn trở lại Dục giới tối đa 7 lần thì chấm dứt luân hồi.
B. Không còn thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, họ nhận ra, giác ngộ tham và sân, giải thoát một phần tham và sân, được gọi là bậc Nhất lai. Nếu chưa giải thoát luân hồi sinh tử trong đời này thì họ chỉ còn trở lại Dục giới một lần và chấm dứt luân hồi sinh tử.
C. Họ giác ngộ và giải thoát hoàn toàn thân kiến, hoài nghi,giới cấm thủ, tham và sân, được gọi là bậc Bất hoàn. Nếu ngay trong đời này, họ chưa giải thoát luân hồi sinh tử thì sau khi qua đời, sinh đến cõi Bất hoàn và sẽ chấm dứt luân hồi sinh tử tại đó.
D/ Không còn 5 kiết sử trên, họ nhận ra giác ngộ về sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn vi tế, trạo hối, vô minh và không còn lệ thuộc, giải thoát khỏi chúng thì được gọi là Bậc A la hán hay Vô Sinh, ngay trong đời này chấm dứt hoàn toàn luân hồi sinh tử.
5/ Bằng cách gì họ nhận ra 10 loại kiết sử trên?
Câu trả lời, Bằng cách học và hiểu đúng về chúng trên lý thuyểt, tiếp tục kiên trì chiêm nghiệm nhận ra chúng ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ trong sinh hoạt của chính mình.
6/ Bằng cách gì không lệ thuộc, giải thoát khỏi chúng.
Câu trả lời, học đúng lý thuyết và tiếp tục kiên trì thực hành Bát chánh đạo ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ trong sinh hoạt của chính mình.
7/ Tại sao trong kinh tạng, Đức Phật thường dạy các Tỳ kheo hành thiền, giữ nhiều giới luật? Với hoàn cảnh sinh hoạt của người tại gia thì làm sao thực hành?
Câu trả lời, đây chính là vấn đề đã có nhiều ngộ nhận, cần hiểu cho đúng về tu tập trong sinh hoạt hằng ngày giữa người xuất gia và tại gia.
Với người xuất gia thì sinh hoạt hằng ngày của họ là học giáo pháp, hành thiền, giữ giới luật theo cộng đồng của họ vì không phải sinh hoạt, kinh doanh cho gia đình, xã hội, không lo về cơm áo gạo tiền.
Người tại gia thì sinh hoạt của họ là phải kinh doanh sinh kế với cơm áo gạo tiền cho bản thân, gia đình, xã hội. Thế nên, họ học và thực hành giáo pháp ngay trên sinh hoạt của họ. Nếu người tại gia tập trung thời gian ngồi thiền, giữ luật thì làm sao phục vụ bản thân, gia đình, xã hội và sẽ đưa đến gia đình tan vỡ.
Đức Phật dạy 4 pháp đưa đến hạnh phúc cho người tại gia trong hiện tại là : có nghề nghiệp làm ăn, giao du bạn tốt, biết quản lý tài sản làm ra, biết cân đối thu chi trong sinh hoạt và cho tương lai là: tận tín Tam bảo, thọ trì 5 giới, bố thí cúng dường, học giáo pháp, hiểu Bốn thánh đế trong đời sống. (Tín, giới, thí, văn, tuệ)
Nếu chịu khó đọc kinh tạng Nguyên thủy, chúng ta sẽ thấy Đức Phật không chú trọng dạy hành thiền, giữ luật cho người tại gia như cho các vị tỳ kheo mà dạy họ tu tập ngay trên sinh hoạt của họ. Sau khi gặp Đức Phật, nghe pháp, một người phật tử tại gia vẫn sinh hoạt như trước nhưng với ba quy y, giới và nhận thức đúng pháp.
Thế nên, nếu người xuất gia mà không sinh hoạt trên trách nhiệm học giáo pháp, hành thiền mà làm những việc như kinh doanh, xây dựng... người tại gia cư sĩ lại cố gắng tu tập, hành thiền, giữ luật theo sinh hoạt của người xuất gia thì đã đi lạc đường.
Như thế, tuy khái niệm vê sự giác ngộ và giải thoát thật khó khăn và xa lạ với chúng ta nhưng qua kinh tạng nguyên thủy thì chúng đang ở ngay dưới chân chúng ta nếu chúng ta học đúng, hiểu đúng, chiêm nghiệm thực hành ngay trên lời nói, hành động, ý nghĩ từ sinh hoạt bình thường của chính mình mà không cần làm gì thêm nữa, thì sự giác ngộ và giải thoát đang có mặt với chúng ta.
Hẹn gặp các học viên trong các buổi học về chương X.