Hàng tuần vào lúc 5 giờ 30 chiều thứ Bảy, giờ California - 7 giờ 30 sáng Chủ Nhật, giờ Việt Nam
Giảng sư: thầy Tâm Hạnh
Zoom: https://us02web.zoom.us/j/82603060494 Zoom ID: 826 0306 0494
Trang Facebook của lớp: https://www.facebook.com/groups/196261358903478
Tài Liệu Học: https://drive.google.com/drive/folders/1y7QGE4ftuIRA6F-zsPRFHaP8fYTRafGX?usp=sharing
BỐ CỤC TỨ NIỆM XỨ
(Bài 001)
Chào các học viên lớp học Tứ niệm xứ online.
Lớp học của chúng ta là một lớp học, không phải là các buổi giảng pháp hay thuyết pháp.
Trong một lớp học, tất cả các học viên PHẢI TỰ HỌC VÀ TƯƠNG TÁC bài học với thầy dạy trên cơ sở sư phạm.
Trong các lớp dạy Phật học ở VN, chúng tôi đã áp dụng phương pháp:
Cung cấp tài liệu học cho các học viên trước tuần lễ sẽ học.
Nhận được tài liệu, học viên tự đọc kỹ, nghiên cứu, ghi ra các câu hỏi chưa hiểu. Các câu hỏi có ba phần : ý nghĩa nội hàm connotation từng chữ, từng câu; ý nghĩa câu văn kinh trong thực tế; cách áp dụng trong thực tế.
Đến buổi học, các học viên đưa ra các câu hỏi. Qua các câu hỏi, chúng tôi kiểm tra (dò bài) các học viên và tương tác giải thích. Nếu học viên nào không hỏi vì nghĩ "đã hiểu hết" hay "giấu dốt" hay thụ động thì chúng tôi không chịu trách nhiệm về sự hiểu biết của họ. Tôi nghĩ những học viên dạng này nên nghỉ học, tìm thầy khác, lớp khác học. Lớp học chúng ta không đón nhận những dạng học viên này.
Giới thiệu qua bài mới sẽ tương tác thảo luận trong buổi học sau.
Để có thể học vào kinh văn kinh Niệm xứ với ba bước: Hiểu đúng nội dung câu kinh văn; nhận ra ý nghĩa đó trong thực tế; bằng cách nào thực hành trong sinh hoạt không cần hình thức, các học viên cần làm quen, hiểu đúng các thuật ngữ phật học trong kinh Niệm xứ ( đây là bức rào cản lớn nhất ngăn chúng ta không hiểu kinh văn) và bố cục của bài kinh.
Các thuật ngữ trong bố cục kinh Niệm xứ.
Đại ý chung Kinh Niệm xứ.
Bằng vipassanà, ghi nhận, quan sát thân, thọ, tâm, pháp ĐANG LÀ nhận ra chân đế hữu vi 5 uẩn đang vận hành theo 3 trạng thái vô thường,khổ, vô ngã. Khi nhận ra chân đế 5 uẩn đang vận hành thì thân kiến với ảo tưởng là ta, của ta, tự ngã của ta hình thành trên 5 THỦ uẩn được xây dựng từ 4 thủ tự động bị vô hiệu hóa. Ví dụ, khi nhận ra vàng thật thì không bị vàng giả lừa gạt.
Điều kiện thực hành Tứ niệm xứ,
Tối thiểu giữ 5 học xứ ( năm giới) làm cơ sở đưa đến chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
Niệm thân, thọ, tâm là căn cứ trên nhận thức thông thường, bằng vipassanà, ghi nhận quan sát chúng trên thân, thọ, tâm để nhận ra 4 uẩn chân đế:
Niệm thân nhận ra sắc uẩn
Niệm thọ nhận ra thọ uẩn
Niệm tâm nhận ra hành uẩn và thức uẩn
Niệm pháp là căn cứ 5 giáo pháp của đức Phật đã giác ngộ và giảng dạy, từ sự vận hành của thân, thọ, tâm, nhận ra tưởng uẩn và cả 5 uẩn.
Ghi chú quan trọng,
Pháp học chia ra 4 là thân thọ tâm pháp nhưng PHÁP HÀNH CHỈ CÓ MỘT là VIPASSANÀ. Thế nên, trong sự thực hành tứ niệm xứ bằng Vipassanà KHÔNG THỂ PHÂN CHIA CHỈ NIỆM THÂN HAY CHỈ NIỆM THỌ HAY CHỈ NIỆM TÂM HAY CHỈ NIỆM PHÁP. Chia niệm từng phần riêng thì KHÔNG PHẢI LÀ thực hành vipassanà.
Giải thích từ ngữ.
NIỆM SATI
Niệm là gì? sati là 1 tâm sở, có nhiều chức năng như ghi nhớ, ghi nhận đúng, tỉnh thức, tập trung trên đối tượng ngay trong hiện tại, không lẫn lộn.
Ghi chú quan trọng: NIỆM tập trung và ghi nhận với cả hai đối tượng là tục đế và chân đế.
Các học viên sẽ được học về CHÂN ĐẾ là đối tượng của Vipassanà. Tục đế là đối tượng của samadha.
Vai trò: NIỆM là thuật ngữ trung tâm trong tu tập Tứ niệm xứ bằng Vipassanà – yếu tố phát triển thành chánh niệm trong Bát Chánh Đạo (sammā-sati) và trong Thất Giác Chi (sati-sambojjhaṅga).
Ví dụ: "Sati nāma anussati" — Sati có nghĩa là ghi nhận liên tục.
SATIMÀ tùy niệm, đương niệm, đang với niệm ( trong kinh văn)
Tính từ hoặc danh từ (chỉ cho người)
Nghĩa là có niệm, tùy niệm
Dùng để mô tả về ( người) đang thực hành với niệm.
Ví dụ: Bhikkhu satimā vihareyya" — Vị Tỳ-kheo luôn sống, an trú với niệm. ( niệm thanh tịnh)
3. SATIMATTÀ chỉ có niệm, thuần niệm sati + hậu tố -mattā → "chỉ có", "thuần", "mức độ của..." Thường dùng để nói đến trạng thái chỉ có niệm mà không xen tạp thứ gì khác (như tâm niệm không bị lạc đối tượng, tán loạn...).
Ví dụ: "Satimattāya paṭissato hoti" — Người ấy có mặt với thuần niệm.
4. SAMMÀ SATI CHÁNH NIỆM
Nhờ tâm sở niệm định hướng hoạt động các chức năng của 6 giác quan, ghi nhận quan sát các đối tượng của chúng là thân, thọ, tâm
pháp ĐANG LÀ mà nhận ra 5 uẩn.
Hợp tác với 7 thành tố của BCĐ, nhận ra 3 tướng trạng VT, K, VN trên 5 uẩn.
GHI CHÚ QUAN TRỌNG: Sự ghi nhận, quan sát 3 trạng thái đó trên 5 uẩn MỚI GỌI LÀ CHÁNH NIỆM.
CHÁNH NIỆM, HỢP TÁC CHÁNH TINH TẤN CHUYỂN ĐỊNH THÀNH CHÁNH ĐỊNH. CHÁNH ĐỊNH HƠP NHẤT 8 THÀNH TỐ BÁT CHÁNH ĐẠO CHUYỂN CHÁNH KIẾN HỢP THẾ THÀNH SIÊU THẾ NHẬN RA TRỌN VẸN 4 THÁNH ĐẾ.
Chú ý, bản Pàli kinh Niệm xứ và Đại niệm xứ, chỉ có chữ SATI _ NIỆM, KHÔNG CÓ CHỮ SAMMÀ SAITI _ CHÁNH NIỆM.
NHIỆT TÂM, Pàli: ÀTÀPĪ , Anh ngữ: ARDENT ( Cháy, nóng rực, nồng nhiệt, hăng hái)
là tinh tấn, thiêu đốt phiền não, là sự hoạt động liên tục của 4 chánh cần.
TỈNH GIÁC, Pàli: SAMPAJÀNO, Anh ngữ: CLEARLY COMPREHENDING ( hiểu rõ, lĩnh hội, nhận thức thấu đáo, trọn vẹn, bao gồm)
Sự nhận ra, biết rõ bằng tuệ; sự hiểu biết rõ, trọn vẹn những gì đang xảy ra ở thân thọ tâm pháp. Nhận ra hiểu rõ tướng chung, tướng riêng của đối tượng.
VIPASSANÀ
Anh : insight
Việt : minh sát
Chữ vipassanā (Pāli) là một thuật ngữ quan trọng trong Phật giáo nguyên thủy, thường được dịch là “minh sát”, “quán sát đặc biệt” hay “tuệ quán”. Nó được cấu tạo bởi hai thành phần chính:
1. Vi- (tiếp đầu ngữ)
Đây là một tiếp đầu ngữ trong tiếng Pāli và Sanskrit, có nhiều sắc thái ý nghĩa, nhưng trong ngữ cảnh của vipassanā, nó chủ yếu mang những nghĩa sau:
Đặc biệt / rõ ràng / sâu sắc: thể hiện sự thấy biết rõ ràng và thấu suốt, không chỉ là cái thấy thông thường.
Phân biệt / tách biệt: gợi ý việc thấy sự phân biệt của các pháp, thấy rõ bản chất thật của thân - tâm, danh - sắc, sinh - diệt…
Đôi khi cũng mang nghĩa ngược lại hay vượt khỏi — hàm ý vượt qua cách thấy thông thường.
2. Passanā:
• Có nghĩa là thấy, quan sát, nhận biết.
• Xuất phát từ căn động từ “passati” trong Pāli, nghĩa là “thấy”.
→ Vipassanā = Vi + Passanā = Quán sát đặc biệt / Thấy rõ ràng / Tuệ tri
Hiểu đơn giản, vipassanā là cái thấy vượt lên trên cách thấy thông thường, là sự thấy biết NĂM UẨN chân đế, NHẬN RA vô thường (anicca), khổ (dukkha), và vô ngã (anattā) nơi thân và tâm, qua trực nghiệm chứ không phải qua lý thuyết.
CẤU TRÚC VÀ CHỨC NĂNG VIPASSANÀ
Tâm sở niệm SATI + nhận thức PASANÀ của 6 giác quan ĐANG HOẠT ĐỘNG TRÊN ĐỐI TƯỢNG ĐANG LÀ.
PASSANÀ ở đây chính là nhận thức của sáu giác quan ( tạm gọi là thức hay tâm hay tâm vương) trên đối tượng ĐANG LÀ. VI ở đây chỉ cho tâm sở niệm ( tạm gọi là tâm sở hay tâm lý phụ Pàli: Cetasika, Anh: mental condition). Tâm vương hoạt động trên ba yếu tố: giác quan, đối tượng đang là và chức năng của giác quan đó ( thức). Diễn trình nhận thức hay hoạt động của thức hay chức năng hoạt động của giác quan lại tùy thuộc vào sự liên kết, hợp tác của các tâm sở.
Nhận thức của 6 giác quan nếu không có tâm sở sati niệm định hướng thì sẽ hoạt động không tập trung trên đối tượng như trái bí trôi lang thang trên nước. Có tâm sở sati niệm định hướng, khống chế, nhận thức của 6 giác quan sẽ tập trung đến đối tượng đang là như viên đá rơi xuống nước, sẽ đi thẳng đến đáy nước và đứng yên ở đó.
So sánh với “samatha”:
Trong khi samatha (thiền chỉ, định) là làm tâm an tịnh, thì vipassanā là để thấy rõ sự thật tối hậu của các pháp (tuệ tri), dẫn đến giải thoát.
CON ĐƯỜNG DUY NHẤT : Ekàyano ...maggo.
KINH VĂN
Pàli : " Ekàyàno ayam, bhikkhave, maggo"
Ekà: chỉ, duy, trực tiếp,
Yano, yanà : xe cộ, đường xe chạy, sự lưu thông, phương tiện ( vehicle, a path, means), thừa ( như Đại thừa, Nhất thừa)
Ekàyàna : the only way or means ( con đường hay phương tiện trực tiếp)
Ayam : chỉ đây là ( just this)
Bikkhave, bhikkhu : tỳ khưu
Maggo : con đường, đạo
English : "Bhikkhus, this is the direct path"
Hán : 諸比丘, 於此, 此有一道_ Chư tỳ khưu, ư thử, thử hữu nhất đạo. ( đạo, thừa, pháp)
Việt :"Các tỳ khưu, đây là con đường duy nhất."
Thế nào là con đường duy nhất?
1/ Trực tiếp, không ngã rẽ, thẳng đến thấy pháp, 5 uẩn, ba tướng VT, K, VN.
2/ Con đường mà hành giả phải đi một mình, đơn độc, tự mình đi, không tập thể, không làm chung, không đám đông, không đi thay nhau, không thể đi bằng tín ngưỡng, cầu nguyện hay hình thức tôn giáo.
3/ Con đường mà chỉ có Đức Phật Chánh đẳng giác tìm ra và giảng dạy.
4/ Con đường trực tiếp thấy 5 uẩn, thành tựu 8 chánh đạo, không còn sầu bi khổ ưu não, chứng đắc Niết bàn, vượt qua luân hồi sinh tử.
NIỆM THÂN KÀYANUPASSANÀ SATIPATTHÀNA
Kinh văn
Pàli :.. kàye kàyànupassī viharati...( ātāpi sampajāno SATIMĀ vineyya loke abhijjhādomanassam)
Anh : ....abides contemplating the body as a body....( ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness and grief.)
Hán : 於身隨觀身... ư thân tùy quán thân (nhiệt tâm nhi chú ý, thậm thâm trì niệm, ư thế gian trừ khứ tham ưu.)
Việt : ...sống quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác, hệ ( tùy) niệm, để chế ngự tham ưu ở đời.
Trong phần niệm THÂN, chúng ta cần phải hiểu đúng chữ thân pàli: kàya, TÙY THEO NGỮ CẢNH của kinh văn.
KÀYA : một đống, tập hợp, sự gom lại, thân thể, đối tượng thuộc vật lý ( Anh: a heap, a collection, the body, physical object). Trong ngữ cảnh của phần niệm thân, chữ " thân" có khi chỉ cho "cả hơi thở vật lý" chứ không phải thân thể.
Trong phần niệm thân có 14 đề tài:
_ Hơi thở 1
Trong phần niệm hơi thở, CẦN PHẢI HIỂU ĐÚNG các từ ngữ sau theo ngữ cảnh của kinh văn. Nếu hiểu không đúng thì KHÔNG THỂ THỰC HÀNH.
Hơi thở ngắn, dài, thân hành, cảm giác thân hành, an tịnh thân hành, vị ấy học.
1/ ...khi thở ngắn....biết thở ngắn...
Khi thở dài...biết thở dài..
Chúng ta thường hiểu là ngắn dài theo thời gian và độ dài ngắn của không gian.
Trong Pāli, chữ “dīghaṃ” (dài) và “rassaṃ” (ngắn)
Về mặt ngôn ngữ học, Pāli Dīgha/rassa có thể bao gồm cả thời gian và không gian. Không nhất thiết phân biệt rạch ròi.
Về mặt hành trì thực tế Cảm nhận của hành giả là tổng thể: một hơi thở có thể được cảm thấy dài hơn vì nó nhẹ nên kéo dài trong thời gian, hay ngắn hơn vì nó mạnh, gấp nên quãng chuyển động rõ nét hơn.
Tâm điểm trong Anapanasati Không phải là đo chiều dài hay thời gian, mà là “pajānāti” — biết rõ như thật. Đây là pháp hành bằng niệm – tỉnh giác, không đo lường – tưởng tượng.
Theo ví dụ vòng quay tay hình vòng tròn dụng cụ tiện gỗ của người thợ tiện gỗ trong kinh văn, dụng cụ tiện hình vòng tròn không có dài ngắn mà mạnh hay nhẹ. Chúng ta có thể kết hợp câu kinh văn và ví dụ để hiểu trong thực hành, ngắn là hơi thở mạnh, gấp; dài là hơi thở nhẹ. ( chúng tôi sẽ ví dụ sau)
2/ Thân hành
Từ ngữ này đã gây biết bao ngộ nhận cho người học và hành.
Thân hành” (kāyasaṅkhāra) là gì trong ngữ cảnh này?
Trong ngữ cảnh của đoạn kinh văn về quán niệm hơi thở, kāyasaṅkhāra được định nghĩa là hơi thở (in-and-out breathing).
Vì sao?
"Saṅkhāra” nghĩa là hành, tức là những hoạt động có điều kiện, sự tạo tác.
“Kāya” là thân hay tập hợp vật lý. Trong văn cảnh này là hơi thở vật lý.
Như vậy, Kāyasaṅkhāra : thân hành có nghĩa là sự hoạt động, vận hành của hơi thở.
Tham khảo Kinh Tiểu phương quảng 44, Trung bộ.
"Hành ( là gì)
Thưa Ni sư, có bao nhiêu hành?
Hiền giả, có ba loại hành này: thân hành, khẩu hành, và tâm hành.
Thưa Ni sư, thế nào là thân hành, thế nào là khẩu hành, thế nào là tâm hành?
Thở vô, thở ra, Hiền giả Visākha, là thân hành, tầm tứ là khẩu hành, tưởng và thọ là tâm hành.
Thưa Ni sư, vì sao thở vô thở ra là thân hành, vì sao tầm tứ là khẩu hành, vì sao tưởng và thọ là tâm hành?
Thở vô, thở ra, Hiền giả Visākha, thuộc về thân, những pháp này lệ thuộc với thân, nên thở vô thở ra thuộc về thân hành. Hiền giả Visākha, trước phải tầm và tứ rồi sau mới phát lời nói, nên tầm tứ thuộc về khẩu hành. Tưởng và thọ và tâm sở, các pháp này lệ thuộc với tâm, nên tưởng và thọ thuộc về tâm hành"
( Bản in lần I, Hữu Minh Tiểu Kinh, Trang 301)
(Tham khảo thêm ở Visuddhimagga Thanh tịnh đạo luận) trong đoạn kinh này, THÂN HÀNH chỉ đến sự hoạt động của hơi thở, tức là những chuyển động vi tế của " Bốn đại chủng : địa đại chủng, thủy đại chủng, hỏa đại chủng và phong đại chủng.
Tham khảo kinh Giáo giới La Hầu la đại kinh 62, Trung bộ .
"Bạch Thế tôn, niệm hơi thở vô, hơi thở ra được tu tập thế nào?Làm cho sung mãn...được kết quả lớn, lợi ích lớn? Này La hầu La, ....như thật quán sát địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới với chánh trí tuệ..."
3/ Cảm giác thân hành
Câu Pāḷi:
“Sabbakāyapaṭisaṃvedī assasissāmīti sikkhati”
Các bản dịch thông thường là " Cảm giác toàn thân...tôi sẽ thở vô ...thở ra..vị ấy học."
Trong ngữ cảnh này, câu dịch của chúng tôi sẽ là
“Thở vào với sự GHI NHẬN TRỌN VẸN hơi thở. Vị ấy học.
Tại sao?
Từ ngữ Paṭisaṃvedī: ghi nhận, CẢM NHẬN chứ KHÔNG PHẢI LÀ CẢM GIÁC.
Động từ gốc: paṭisaṃvedeti
Nghĩa gốc: trực tiếp cảm nhận, ghi nhận, kinh nghiệm, nhận biết bằng thân hoặc tâm.
Không nên hiểu và dịch đơn thuần là “cảm giác” theo kiểu tâm lý học (cảm giác khổ, lạc...), mà nên hiểu là cảm nhận, ghi nhận một cách trực tiếp, có mặt với toàn thể đối tượng ấy.
4/ An tịnh thân hành
Passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ assasissāmīti sikkhati.
Câu này thường được dịch.
An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô. Vị ấy học."
Với sự giải thích sau, chúng ta có thể hiểu và dịch như sau:
"Ghi nhận, quan sát sự an tịnh, ổn định của sự hoạt động của cả hơi thở , khi thở vào hay thở ra. Vị ấy học."
Chú ý từ ngữ
Passambhayaṃ: lắng dịu, an tịnh, ổn định...
Trong ngữ cảnh này, chỉ cho sự ổn định, sự lắng dịu của hơi thở CHỨ KHÔNG PHẢI NHỜ THỰC HÀNH NIỆM HƠI THỞ ĐẾN BƯỚC NÀY NÊN TÂM người thực hành LẮNG DỊU, ỔN ĐỊNH MÀ LÀ HƠI THỞ ĐƯỢC ỔN ĐỊNH.
Với Bốn bước niệm hơi thở này, tất cả mọi người đều có thể trải nghiệm được.
Trải nghiệm thực tế,
Các bạn xách một bình nước ( hay vật gì đó) trọng lượng bằng khả năng của mình, đi chậm từ A đến B, với khoảng cách chừng 40 mét. Khi cảm thấy mệt, các bạn đứng lại, đặt bình nước xuống, tập trung ghi nhận, quan sát hơi thở ( niệm). Các sẽ nhận ra 4 giai đoạn,
a/ Hơi thở MẠNH , dồn, gấp...nhưng NGẮN.
b/ Hơi thở NHẸ, yếu, ...nhưng DÀI ra.
c/ Ggay thân và tâm của các bạn là " trường thiền đích thực nhất, thân thọ tâm pháp là những người bạn đang hợp tác cùng bạn thực hành Vipassanà", không cần đi đâu, tìm ở đâu cả.
7/ Bắt đầu và tiếp tục, tiếp tục bắt đầu, sự thành tựu đang ở đây và bây giờ ngay trong nhận thức sáu giác quan với các đối tượng của chúng bằng Vipassanà.
Hẹn gặp các bạn trong các lớp học Tứ Niệm Xứ vào 5:30 chiều Thứ Bảy hằng tuần.
Người hướng dẫn
Thầy Tâm Hạnh
Đề Cương Ba Phần Niệm Thân Cho Các Học Viên Lớp Học Tứ Niệm Xứ
(Bài 002)
Buổi học 5:30 chiều Thứ Bảy, ngày 9 tháng 8 năm 2025
Các học viên " đọc kỹ" phần kinh văn và phần giải thích.
Ghi ra những câu hỏi chưa hiểu, theo 3 tiêu chí:
Ý nghĩa nội hàm từ ngữ, cả câu.
Ý nghĩa của từ ngữ, câu kinh văn trong thực tế.
Bằng cách nào thực hành pháp hành đó trong sinh hoạt bình thường hằng ngày.
Kinh văn Tứ Niệm Xứ_ Bản dịch của Ngài T. Minh Châu.
( Trích đoạn giới thiệu và 3 đoạn niệm thân)
Thế Tôn thuyết như sau:
-- Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.
Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
A. Quán thân
Pàli: Kàyanupassanà satipaṭṭhāna
English: Contemplation of the body
1. Niệm hơi thở vào, hơi thở ra
Pàli: Ànàpànapabba
English: Mindfulness of in and out breathing.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già ( Pàli: nisidati pallankam àbhujitvà, chỉ có nghĩa là ngồi xuống, xếp chân lại _ không có nghĩa bắt buộc phải ngồi theo hình thức nào cả) , lưng thẳng và an trú niệm trước mặt ( Pàli: parimukham satim upaṭṭhapetvà có nghĩa là chú tâm ghi nhận, quan sát vào đối tượng đang là). Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra.
Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn".
"Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập;
"An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Này các Tỷ-kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay thiện xảo khi quay dài, tuệ tri: "Tôi quay dài" hay khi quay ngắn, tuệ tri: "Tôi quay ngắn". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
Như vậy, vị ấy sống quán thân ( hơi thở) trên nội thân ( hơi thở) hay sống quán thân ( hơi thở) trên ngoại thân ( hơi thở); hay sống quán thân (..) trên cả nội thân(..), ngoại thân (..); hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân (..); hay sống quán tánh diệt tận trên thân ( hơi thở) ; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân ( hơi thở) . "Có thân ( hơi thở) đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
2. Niệm bốn tư thế chính của thân.
Pàli: Iriyàpathapabba
English: The four postures
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi, tuệ tri: "Tôi đi", hay đứng, tuệ tri: "Tôi đứng", hay ngồi, tuệ tri: "Tôi ngồi", hay nằm, tuệ tri: "Tôi nằm". Thân thể được sử dụng như thế nào, vị ấy tuệ tri thân như thế ấy.
......( như phần sau từ " Như vậy, vị ấy sống....quán thân trên thân")
3. Tỉnh giác (trên các hoạt động của thân)
Pàli: Sampajànapabba
English: Clear comprehension
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, khi bước tới bước lui, biết rõ việc mình đang làm; khi ngó tới ngó lui, biết rõ việc mình đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rõ việc mình đang làm; khi mang áo Sanghati (Tăng già lê), mang bát, mang y, biết rõ việc mình đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm; khi đại tiện, tiểu tiện, biết rõ việc mình đang làm; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, biết rõ việc mình đang làm.
( ...( như phần sau từ " Như vậy, vị ấy sống....quán thân trên thân")
Các học viên tự học theo trình tự sau:
1. Hiểu rõ ý nghĩa gốc và ý nghĩa theo ngữ cảnh của từ ngữ trong đoạn kinh văn trên theo giải thích ở sau.
2. Nhận ra và tự sửa những hiểu lầm căn bản trong một số câu kinh quan trọng.
3. Thực hành tại lớp và về nhà ba đề tài : hơi thở, bốn cử động chính, các hoạt động phụ.
Phần 1. Giải thích từ ngữ.
Tứ Niệm xứ là xây dựng, thành lập, thiết lập " sự ghi nhận, quan sát" trên đối tượng thân, thọ, tâm, pháp ĐANG LÀ bằng tâm sở niệm khi các giác quan ĐANG tương tác với với các đối tượng.
Vipassanà: nhận thức của các giác quan ĐANG tương tác với đối tượng với sự hợp tác của nhiệt tâm, tùy niệm, tỉnh giác để nhận ra đối tượng ĐANG LÀ không bị bức màn tôi, của tôi, tự ngã của tôi che mờ, tuệ tri trên đối tượng.
Tuệ tri pajànàti: ghi nhận biết rõ đối tượng chân đế đang là, không từ suy nghĩ, phân tích, không là tôi, của tôi...
Sanh khởi: phát sinh, xuất hiện
Diệt tận: chấm dứt, mất, đã qua
1. Niệm thân
Kinh văn: " kàye kàyànupassī viharati..."
Dịch Việt: Trú, sống quán thân trên thân.
kàya: thân ( bao gồm các pháp thuộc thân, không phải chỉ riêng cho cơ thể)
Anupassanà: quan sát liên tục...
kàyànupassanà: quan sát liên tục các PHÁP thuộc thân ngay trong thân mình.
Đại ý: " Niệm thân" không phải là biết, nghĩ về thân thể mà là ghi nhận, quan sát, biết rõ những gì ĐANG XẢY RA nơi thân như một đối tượng quán chiếu, KHÔNG phải là " tôi", " của tôi". Niệm thân là ĐANG nhận ra pháp.
2. Niệm hơi thở Ànàpànasati.
a. Kinh văn:
Việt: "... ghi nhận, quan sát ( niệm) hơi thở vô; ghi nhận quan sát ( niệm) hơi thở ra."
Pàli " So satova assasati, satova passasati."
English:" ...just mindful he breathes in, mindful he breathes out."
b. Kinh văn:
Việt: " thở vô dài, ...ghi nhận quan sát thở vô dài; thở ra dài,...ghi nhận quan sát thở ra dài; thở vô ngắn,...ghi nhận quan sát thở vô ngắn; thở ra ngắn, ...ghi nhận quan sát thở ra ngắn."
Pàli: lược ...Dīgham và assasanto: ......rassam passasàmiti pajànàti."
English: lược...I breathe in long....I breathe out short."
Dài, Pàli: dìgham, English: long.
Ngắn, pàli: rassam, English: short.
Về ngôn ngữ học, Pàli Dìgham dài, rassam ngắn có thể dùng cho cả thời gian và không gian. Một hơi thở có thể dài..nhẹ...sâu. Một hơi thở có thể ngắn...mạnh, gấp, thô.
Chúng ta chú ý chữ pajànàti: tuệ tri: "biết rõ sự thật như đang là.." Như vậy, dài là nhẹ; ngắn là mạnh, gấp. Tâm điểm là ghi nhận rõ hoạt động của hơi thở, không đo lường, không tưởng tượng.
c. Kinh văn:
Việt: Cảm giác toàn thân..., thở vô....thở ra.
Pàli : Sabbakàyapatisamvedi assasissāmīti sikkhati.
English: ....breathe in experiencing the whole body.
Trọng tâm ở câu kinh này là chữ " cảm giác". Chữ này dịch từ Pàli là patisamvedi của động từ gốc patisamvedeti có nghĩa là trực tiếp cảm nhận, nhận biểt, ghi nhận trọn vẹn, ghi nhận trực tiếp, có mặt với TOÀN THỂ đối tượng ấy CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ cảm thọ hay CẢM GIÁC _ feeling_ như cảm giác khổ, lạc hay xả.
Thế nên, câu kinh văn sẽ được hiểu rõ là...
....GHI NHẬN TRỌN VẸN CHU KỲ CỦA HƠI THỞ KHI ĐANG THỞ VÔ...THỞ RA.
d. Kinh văn
An tịnh thân hành...thở vô...thở ra....
Pàli: Passambhayam KÀYASANKHÀRAM assasissàmiti sikkhati.....passasissàmiti sikkhati..."
English: ....breathe in/ out tranquilizing the body formation...
Ở đây, chữ " thân hành" thường được hiểu là "hành động, hoạt động CỦA THÂN", đã gây biết bao ngộ nhận cho người học và hành.
Như vậy, " thân hành" _ kàyasankhàra có nghĩa đúng là gì? Trong ngữ cảnh này, Kàyasankhàra được định nghĩa là hơi thở ( in-and-out breathing).
Tại sao? Sankhàra là hành, có nghĩa là sự tạo tác, những hoạt động có điều kiện (" Sabbe sankhàra aniccà "_ All conditioned things are impermanent_ Pháp cú.277)
Kàya là thân hay nhóm, tập hợp vật lý. Trong ngữ cảnh này, thân là hơi thở vật lý. Như vậy, kàyasankhàra thân hành LÀ SỰ HOẠT ĐỘNG VẬN HÀNH CỦA HƠI THỞ VẬT LÝ.
Passambhayam: ổn định, lắng dịu, an tịnh..
Như thế, câu kinh văn trên, sẽ được diễn nghĩa là:
Ghi nhận, quan sát sự ổn định, an tịnh CỦA CẢ SỰ HOẠT ĐỘNG CỦA HƠI THỞ khi thở vô...thở ra..
Có nghĩa là, sự ổn định, an tịnh này LÀ CỦA HƠI THỞ ĐANG HOẠT ĐỘNG, CHỨ KHÔNG PHẢI CỐ GẮNG ( ngồi cho thật lâu) NIỆM HƠI THỞ ĐỂ THÂN HAY TÂM AN TỊNH.
Tham khảo kinh văn Tiểu Phương quảng 44, Trung bộ.
"Thưa Ni sư, thế nào là thân hành....?
Thở vô, thở ra, Hiền giả Visàkha là thân hành....
( Xem chi tiết ở Trung bộ, kinh 44)
Phần 2, Ghi nhận, quan sát các động tác đi, đứng, nằm, ngồi của thân.
Pàli: iriyàpathapabba
English: the four postures
Phần 3. Ghi nhận, quan sát các hành động của thân trên đối tượng đang là. ( tỉnh giác ngay trên hành động)
Pàli: sampajànapabba
English: clear comprehension
Hai phần này, học viên xem kỹ trong kinh văn, đặt câu hỏi nếu chưa hiểu theo 3 tiêu chí đã nêu trên.
Thực Hành Tại Lớp
1.
a. Ngồi yên lặng, ghi nhận, quan sát hơi thở theo 4 giai đoạn ( 5 Phút) . Ghi chú, tùy theo khả năng và trải nghiệm, học viên,
có thể đi thẳng vào một trong bốn giai đoạn hay đi từng giai đoạn một.
Ghi nhận, quan sát CHỈ TỪNG MỖI HƠI THỞ
b. Thực tập về ghi nhận, quan sát về hành động của thân như đang ngồi hay đứng (1 phút).
c. Thực tập ghi nhận hoạt động của thân với đối tượng như đặt tay trên bàn (1 phút).
2. Hỏi, Học viên cảm thấy khó hay dễ khi ghi nhận, quan sát hơi thở? Hành động? Hoạt động thân với đối tượng?
3. Thân hành là gì?
4. Giải thích và cho ví dụ về " Cảm nhận thân hành"
5. Giải thích và cho ví dụ về " An tịnh thân hành"
6. Học viên cho biết SỰ KHÁC NHAU giữa những từ ngữ NIỆM như NIỆM trong ngữ cảnh NIỆM Phật, NIỆM tâm từ, và NIỆM trên
hơi thở và NIỆM khi đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc, tiếp xúc...
7. Khi nào hơi thở trở thành pháp quán?
8. Tại sao Đức Phật dạy " An tịnh thân hành" khi chỉ ngồi thở?
BÀI TẬP VỀ NHÀ - Home work
Các học viên ( ngoại trừ các vị Tăng Ni PG) không cần phải học Pàli nếu điều kiện chưa cho phép nhưng cần phải học thuộc và hiểu đúng ý nghĩa nội hàm connotation THEO PÀLI các thuật ngữ của kinh Niệm Xứ bằng Việt ngữ hay Anh ngữ: Tuệ tri, niệm, tùy niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm xứ, vipassanà ( insight), minh sát, thân hành là hơi thở ( trong ngữ cảnh niệm hơi thở), hơi thở mạnh_nhẹ, thân hành( đi đứng...), cảm nhận thân hành, an tịnh thân hành.
Thực tập niệm hơi thở với 4 giai đoạn bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào có thể dù chỉ 1 phút hay 30 giây.
3, Thực hành ( không cố gắng) ghi nhận quan sát các động tác đi, đứng, nằm, ngồi bất cứ khi nào có thể.
4. Thực hành ( không cố gắng) ghi nhận các động tác, hành động, nói, bất cứ khi nào tiếp xúc đối tượng.
7, Ghi ra giấy các câu hỏi chưa hiểu về pháp học và hành.
6, Chia sẻ trải nghiệm thực hành vào buổi học sau.
Pháp hộ trì người trì pháp.
Amhe rakkhantu saddhammo, sabbe' pi Dhamma càrino.
Dhamma protects those who are living by it.
法護持受持法者
Hẹn gặp các học viên trong lớp 5:30 chiều thứ Bảy 9/8/2025
Người hướng dẫn
Thầy Tâm Hạnh
ĐẠI CƯƠNG VIPASSANA VÀ TỨ NIỆM XỨ
Sự khác nhau giữa CHỈ và QUÁN trong sự tu tập ( bhānanā) theo kinh tạng Nguyên thủy.
Chào các bạn học viên,
Để chuẩn bị cho các bạn sẽ tham dự lớp học " Tứ niệm xứ trong sinh hoạt của mỗi cá nhân" có khái niệm tổng quát về nội dung lớp học này, chúng tôi giới thiệu đại cương về các chủ đề sau:
1/ Sự khác nhau của chữ " tu" ( hành) giữa cách dùng phổ thông và theo lời dạy nguyên thủy của Đức Phật.
2/ Ý nghĩa nội hàm của từ ngữ thiền và khái niệm của nó trong cách dùng của người Tây Phương, trong phổ thông và theo kinh điển nguyên thủy.
3/ Ý nghĩa và sự tương quan giữa Vipassana và Tứ niệm xứ.
4/ Sự khác nhau giữa thiền định và Minh Sát với Tứ niệm xứ.
Ví dụ, sự khác nhau giữa thiền định và niệm thân ( tứ niệm xứ) trên đối tượng hơi thở.
a. Thiền định
Ý nghĩa, đối tượng, sự thực hành, kết quả
b. Tứ niệm xứ
Ý nghĩa, đối tượng, sự thực hành, mục đích.
5/ Giới thiệu cách thực hành, áp dụng Minh sát ngay trên sinh hoạt khác nhau của mỗi người.
Mời các bạn cùng chúng tôi đi lướt qua từng chủ đề.
1/ Sự khác nhau của chữ " tu" ( hành) giữa cách dùng phổ thông và theo lời dạy nguyên thủy của Đức Phật.
Trong ngữ cảnh ( context) nói về sự tu tập, thông thường chúng ta dùng chữ tu với ý nghĩa chung chung là sửa nhưng sửa cái gì và sửa như thế nào thì ý kiến khác nhau. Có khi, một người không có kiến thức gì về " phật học" nhưng cũng có thể thuyết giảng về tu theo khái niệm của họ về Đạo Phật.
Chữ tu mà chúng ta thường dùng xuất phát từ chữ 修 ( xìu) trong Hán ngữ có nghĩa là " sửa" như sửa chữa, sửa sang, tu sửa. . .ý nghĩa này không có trong ý nghĩa chữ tu mà Đức Phật dạy trong kinh điển Phật giáo.
Chữ " tu" trong kinh điển Phật giáo là Bhàvanà ( Pàli) là hành trì, học và tập luyện có nghĩa là trên nền tảng học và thực hành tư cách đạo đức ( nhóm giới ); luyện tập, phát triển về tinh thần bằng chỉ và quán ( nhóm định) đưa đến tuệ giác ( nhóm tuệ) thấy Bốn thánh đế.
2/ Ý nghĩa nội hàm của từ ngữ thiền và khái niệm của nó trong cách dùng của người Tây Phương, trong phổ thông và theo kinh điển nguyên thủy.
Trong phổ thông để nói về sự tu tập chỉ và quán hay những phương pháp làm ổn định tâm ý, chúng ta thường dùng chữ thiền như tu thiền, hành thiền, thiền định, thiền quán, thiền trà, thiền ca, thiền... cách sinh hoạt gì cũng có thể gọi là thiền theo khái niệm của từng người, từng nhóm.
Chữ thiền trong Việt ngữ là cách phát âm Hán Việt từ chữ 禪 ( shàn, chán) của Hán ngữ với ý nghĩa của từ này là trao, cho, truyền ngôi nhưng được dùng trong cách phiên âm. Chữ thiền gốc từ chữ dhyàna ( Sanskrit) hay Jhàna ( Pàli); Hán phiên âm là thiền ( shàn, chán); Nhật phiên âm là zen; Anh ngữ dịch là Meditation nghĩa là sự suy nghĩ, trầm tư, tập trung tâm ý.
Trong kinh điển nguyên thủy của Phật giáo, thiền không phải là động từ hay cách thực hành ...mà là danh từ chỉ cho các " tầng thiền " của định thuộc sắc giới hay vô sắc giới.
Theo kinh điển nguyên thủy sự tập luyện phát triển " chỉ" đưa đến định và chánh định; tập luyện phát triển " quán" đưa đến chánh niệm. Ở đây, chúng ta cần ghi nhận, chánh định là tâm định như định của 4 tầng thiền sắc giới NHƯNG 4 tầng thiền sắc giới KHÔNG phải là chánh định. Tại sao? Một hành giả không phải phật tử ( ngoại đạo) không có chánh kiến dẫn đạo và không thực hành 6 thành tố chánh đạo khác mà thực hành các phương pháp tu tập định thì vẫn có thể đạt đến 4 tầng thiền " trong khi họ nhập định", xuất định thì mất .
Từ sự thực hành 7 thành tố chánh đạo từ chánh kiến, một phật tử mới có chánh định và chánh định luôn hiện hữu trong các sinh hoạt của họ chứ không phải chỉ trong khi nhập định
Đây là sự khác nhau giữa thiền, các tầng thiền, định và chánh định.
3/ Ý nghĩa và sự tương quan giữa Vipassana và Tứ niệm xứ.
A. Chữ vipassanā (Pāli) là một thuật ngữ quan trọng trong Phật giáo nguyên thủy, thường được dịch là “minh sát”, “quán sát đặc biệt” hay “tuệ quán”. Anh ngữ dịch là insight meditation.
Nó được cấu tạo bởi hai thành phần chính:
a. Vi- (tiếp đầu ngữ)
• Đây là một tiếp đầu ngữ trong tiếng Pāli và Sanskrit, có nhiều sắc thái ý nghĩa, nhưng trong ngữ cảnh của vipassanā, nó chủ yếu mang những nghĩa sau:
• Đặc biệt / rõ ràng / sâu sắc: thể hiện sự thấy biết rõ ràng và thấu suốt, không chỉ là cái thấy thông thường.
• Phân biệt / tách biệt: gợi ý việc thấy sự phân biệt của các pháp, thấy rõ bản chất thật của thân - tâm, danh - sắc, năm uẩn, sinh - diệt…
• Đôi khi cũng mang nghĩa ngược lại hay vượt khỏi — hàm ý vượt qua cách thấy thông thường.
b.. Passanā:
• Có nghĩa là thấy, quan sát, nhận biết.
• Xuất phát từ căn động từ “passati” trong Pāli, nghĩa là “thấy”.
Vipassanā = Vi + Passanā = Quán sát đặc biệt / Thấy rõ ràng / Tuệ tri.
Hiểu đơn giản, vipassanā là cái thấy vượt lên trên cách thấy thông thường, là phương pháp để thấy biết nhận ra năm uẩn. Từ nền tảng tâm sở niệm, vipassana thành lập phát triển tâm sở niệm ngay trên thân, thọ, tâm và pháp qua trực nghiệm chứ không phải qua lý thuyết.
B.Tứ niệm xứ, Pàli là Cataro sati_patthàna
Cataro ( catu) là 4
Sati niệm là một tâm sở, sati từ ngữ căn V sar + a -> sarati = ghi nhớ kỹ, giữ chặt, biết rõ, không lẫn lộn đối tượng này với đối tượng khác.
Anh ngữ dịch là mindfulness với nghĩa sự quan tâm, giữ tâm trên đối tượng.
Hán ngữ 念 ( niệm) gồm chữ kim 今 là ngay hiện tại, đang là và bộ tâm 心 ghép lại. Hàm ý tâm ngay trong hiện tại với đối tượng.
Patthàna là xứ, Pàli : patthàna là sự thành lập, thiết lập từ pa + Vthà tạo thành 2 chữ:
Patthàhati là vị trí, nơi, cơ sở, nền tảng.
Patthàpeti là sáng lập, thiết lập, thành lập.
Anh ngữ là Foundation có 2 nghĩa
1/Sự thành lập, sáng lập, thiết lập.
2/ Cơ sở để thành lập, nền móng...
Hán ngữ là 處 có 2 âm,
Xứ là nơi chốn, cơ sở
Xử là khởi điểm, phát ra, phân biệt đúng sự việc ( xử án, xét xử), đặt để.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu "Bốn niệm xứ" là trên nền tảng tâm sở niệm, thành lập, thiết lập, phát huy niệm trên bốn đối tượng là thân, thọ, tâm và pháp để nhận ra năm uẩn.
Sự tương quan.
Câu hỏi ở đây; bằng cách gì để thành lập, thiết lập niệm trên thân, thọ, tâm, pháp.
Câu trả lời ở đây là dùng vipassana làm phương pháp, điều kiện để định hướng cho tâm sở niệm vừa là nền tảng, vừa phát huy chức năng ghi nhận, quan sát ngay trên thân, thọ, tâm, pháp đang là để nhận ra năm uẩn.
Niệm thân nhận ra sắc uẩn
Niệm thọ nhận ra thọ uẩn
Niệm tâm nhận ra hành và thức uẩn
Niệm pháp nhận ra tưởng uẩn và cả năm uẩn.
4/ Sự khác nhau giữa thiền định và Tứ niệm xứ hay Minh Sát.
Ví dụ, sự khác nhau giữa thiền định và niệm thân ( tứ niệm xứ) trên đối tượng hơi thở.
a. Thiền định
Ý nghĩa, đối tượng, sự thực hành, kết quả
b. Tứ niệm xứ
Ý nghĩa, đối tượng, sự thực hành, mục đích.
a. Thiền định hay thiền chỉ Samadha là trạng thái tâm hoàn toàn an tịnh, không còn bị 5 giác quan trước và các đối tượng của chúng chi phối.
Đối tượng của Samadha là tục đế ( sammutisacca_ conventional truth), hình ảnh khái niệm do tưởng thành lập. Tại sao? Trong ngữ cảnh samadha, đối tượng tục đế là hình ảnh, khái niệm trong ý nghĩ, thường gọi là đề mục thiền, do tưởng dựng lên. Theo các tài liệu phật học, có khoảng 40 đề mục thiền định. Hình ảnh, khái niệm do tưởng dựng lên xuất hiện trên ý nghĩ là tục đế nên không thay đổi (không vô thường) mà chỉ thay thế nhau. Tâm sở niệm hợp với ý thức liên tục tập trung hướng về đối tượng trên ý nghĩ; vì đối tượng không thay đổi nên niệm tập trung cao độ . Khi tâm sở niệm tập trung cao độ, tuần tự năm thiền chi phát sinh khống chế năm triền cái đưa tâm hành giả vào 4 tầng thiền Sắc giới.
Biểu đồ minh họa về Samadha
_ Bước một : ly dục nghĩa là khống chế các nhu cầu dục vọng từ năm giác quan hoạt động trên năm đối tượng của chúng bằng cách dùng tâm sở niệm định hướng, khống chế ý thức phải liên tục hướng đến 1 đối tượng trên ý nghĩ ( pháp trần hay đề mục thiền định). Giai đoạn này gọi là chuẩn bị định ( parikkamma-samadhi) và hình ảnh ban đầu của đề mục là chuẩn bị tướng ( parikkamma-nimitta).
_ Bước hai: ly bất thiện pháp. Trong ngữ cảnh này, bất thiện pháp là 5 triền cái Pảli là panca nivarana; Anh ngữ là five hindrances.
Khi tâm sở niệm hợp tác với ý thức tiếp tục tập trung trên đề mục trong tâm ( thô tướng ) thì kích hoạt 5 thiền chi là tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm tuần tự phát sinh khống chế năm triền cái đưa tâm vào thiền định ( jhānańga).
Tầm khống chế hôn trầm
Tứ khống chế nghi
Hỷ khống chế sân
Lạc khống chế trạo hối
Nhất tâm khống chế dục.
_ Bước ba:
Năm thiền chi tuần tự khống chế năm triền đưa hành giả vào tầng thiền thứ nhất và tuần tự đến tầng thiền thứ tư thuộc Dục giới theo biểu đồ
Tầng thiền 1 đủ cả 5 thiền chi
Tầng thiền 2 chỉ còn hỷ, lạc, nhất tâm.
Tầng thiền 3 chỉ còn lạc và nhất tâm
Tầng thiền 4 chỉ có nhất tâm.
Lưu ý, Bốn tầng thiền định không phải là chánh định vì không được chánh kiến " dẫn đạo" và 6 chánh kia hợp tác.
Chánh định là bốn tầng thiền nhưng được chánh kiến dẫn đạo và tu tập trên 6 chánh kia.
CHI TIẾT QUAN TRỌNG VỀ THIỀN ĐỊNH.
Về hiệu quả của thiền định, có chi tiết rất quan trọng mà người hành thiền phải biết rõ.
Đối với chúng ta, hạnh phúc hay hỷ lạc là khi các giác quan được thỏa mãn theo dục vọng của nó trên các đối tượng " DỤC SINH HỶ LẠC"
Đối với một hành giả hành thiền định, hạnh phúc hay hỷ lạc phát sinh khi các giác quan không còn lệ thuộc vào sự thỏa mãn từ dục vọng của các giác quan trên các đối tượng " LY DỤC SINH HỶ LẠC".
Thế nên, một hành giả chưa làm phát khởi các thiền chi khống chế các triền cái mà có cảm giác hạnh phúc hỷ lạc thì hạnh phúc hỷ lạc đó vẫn là từ dục triền cái phát sinh trên các đối tượng, không phải là hỷ lạc từ thiền định.
b. Tứ niệm xứ.
Ý nghĩa, đối tượng, sự thực hành, mục đích.
Dùng vipassana làm phương pháp, điều kiện để định hướng cho tâm sở niệm vừa làm nền tảng, vừa phát huy chức năng ghi nhận, quan sát ngay trên thân, thọ, tâm, pháp đang là để nhận ra năm uẩn.
Đối tượng của tứ niệm xứ là chân đế ( paramattha sacca _ ultimate truth) là sự hoạt động của thân vật lý ( thân), cảm giác ( thọ) , tâm thức và tâm lý phụ (tâm sở_ mental formation), sự vận hành của thân, thọ, và tâm ( pháp).
Lưu ý: Trong phần quán pháp, quán Bốn thánh đế thì chỉ có Khổ đế và Tập đế là đối tượng quán sát của vipassanà.
Diệt đế và Đạo đế chỉ được trực tiếp chứng ngộ trong sát na đạo ( magga-citta); không thể là đối tượng quán sát của tiến trình vipassanà thông thường ( Theo Thanh tịnh đạo)
Thực hành
Trong kinh Niệm xứ, Đức Phật giới thiệu các đề tài để thực hành bốn niệm xứ như sau.
Niệm thân có 14 đề tài
Niệm thọ có 1 đề tài ( bao gồm 9 loại cảm giác)
Niệm tâm có 1 đề tài ( bao gồm 16 tâm)
Niệm pháp có 5 đề tài.
Tổng cộng 21 đề tài
Nếu gom cả 9 cảm giác và 16 tâm thì thành 44 đề tài.
Bắt đầu thực hành từ tâm sở niệm (sati) như một năng lực tự nhiên, trung tính, kết hợp với tỉnh giác ( sampajañña), được CHÁNH KIẾN ĐỊNH HƯỚNG, tuần tự từng bước chuyển thành chánh niệm ( sammà sati).
Mục đích
Trong sự tu tập về tứ niệm xứ có ba giai đoạn đều được chánh kiến ( hợp thế _ lokiya sammà ditthi và siêu thế _Lokuttara sammà ditthi) dẫn đạo và hoàn thiện từng bước với 6 thành tố kia.
Bước đầu là tùy niệm ( sati-matta) liên tục ghi nhận quan sát các hoạt động của các giác quan khi tiếp xúc với đối tượng, các đối tượng của giác quan ( trần hay cảnh hay ngoại thân), cảm giác, tâm thức...
Bước hai khi tùy niệm đã thuần thục thì niệm kết hợp với tỉnh giác ( sati+ sampajañña) nhận ra năm uẩn.
Bước ba sau khi nhận ra năm uẩn, niệm và tỉnh giác được sự hợp tác của 7 thành tố CHÁNH kia trong Đạo đế trở thành CHÁNH niệm nhận ra tam tướng vô thường, khổ, vô ngã trên năm uẩn.
Khi nhận ra vô thường, hành giả đi vào tùy quán vô tướng giải thoát môn, không còn lệ thuộc khái niệm tục đế. Khi nhận ra khổ, hành giả đi vào tùy quán vô nguyện hay vô tác giải thoát môn, không còn bị dục vọng chi phối. Khi nhận ra vô ngã, hành giả đi vào tùy quán chân không giải thoát môn, thấy rõ duyên khởi, không còn ảo tưởng về năm thủ uẩn.
Đây là Dự lưu đạo.
Qua ba cửa này, hành giả không còn thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ là vị Dự Lưu.
Chúng ta có thể nhìn vipassanà không phải là một phương pháp độc lập mà là một giai đoạn thực nghiệm của chánh kiến. Chúng ta có thể vẽ ra mô hình nhân quả như sau:
Chánh kiến giai đoạn phát khởi ( hợp thế) --> dẫn đạo hành trì vipassanà ( trên tùy niệm + tỉnh giác) --> nhận ra năm uẩn--> thành tựu chánh niệm --> nhận ra tam tướng + thành tựu chánh định => sinh khởi chánh kiến siêu thế ( đạo trí)
Ví dụ sự khác nhau giữa thiền định và Vipassanà trên niệm hơi thở.
Cả hai khuynh hướng đều được bắt đầu theo dõi ghi nhận quan sát hơi thở từ bước 1 đến 4 trong phần niệm thân của Kinh Niệm xứ.
Thiền định
Hành giả tập trung chú tâm ghi nhận và ghi nhận hơi thở....đến mức độ khái niệm về hơi thở ( tục đế) xuất hiện rõ ràng trên ý niệm của hành giả.
Hành giả tiếp tục chú tậm trên khái niệm ấy ( thô tướng) kích hoạt 5 thiền chi tuần tự phát sinh khống chế 5 triền cái, thô tướng thành quang tướng, niệm đưa tâm hành giả vào các tầng thiền định như đã trình bày ở phần thiền định.
Vipassanà
Niệm hơi thở đến bước thứ tư, hành giả không còn suy nghĩ về hơi thở mà chỉ thấy sự hoạt động của ba đại chủng: luồng hơi mạnh yếu, chiếm vùng không gian ( địa đại); nhiệt độ của luồng hơi ( hỏa đại); sự di động của luồng hơi ( phong đại).( trình độ này chưa thấy thủy đại được). Trong ba đại chủng, phong đại rõ nhất.
Khi ghi nhận quan sát rõ cả 4 đại chủng là nhận ra sắc uẩn -> nhận ra tam tướng--> như trình bày ở trên.
5/ Giới thiệu cách thực hành, áp dụng Minh sát ngay trên sinh hoạt khác nhau của mỗi người.
Dùng Vipassanà để thực hành Tứ niệm xứ có nghĩa KHÔNG LÀM THÊM GÌ CẢ MÀ CHỈ GHI NHẬN VÀ QUAN SÁT SỰ HOẠT ĐỘNG CỦA THÂN THỌ TÂM PHÁP NHƯ NÓ ĐANG LÀ.
Tại sao? vì tất cả sự sinh hoạt thân với ngoại thân và tâm của chúng ta ĐỀU LÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA VIPASSANÀ. Chúng ta đang sống trong chân đế nhưng nhận thức bằng tưởng ( perception) nên chỉ nhận lấy thông tin bằng khái niệm ( concept) tục đế. Vipassanà là cách giúp chúng ta nhìn xuyên qua bức màn tục đế để thấy chân đế là sự thật đang là, giúp chúng ta gỡ bỏ các cặp kính màu xuống để thấy thế giới như nó đang là.
Từ khi thức dậy, đi làm, hoạt động, giao tiếp, ăn uống, tại nhà hay đi làm trong hoàn cảnh của cá nhân, cho đến khi ngủ, chúng ta lặng lẽ ghi nhận quan sát hành động, lời nói, cảm giác, ý nghĩ khi một mình hay khi giao tiếp, làm việc của riêng ta, ghi nhận quan sát như nó đang là mà không cần làm thêm gì cả. Từ khi thức dậy cho đến khi ngủ ĐÃ CÓ QUÁ NHIỀU ĐỐI TƯỢNG CỦA VIPASSANÀ ĐANG ĐẾN VỚI TA THÌ CẦN GÌ LÀM THÊM GÌ NỮA MÀ CHỈ GHI NHẬN QUAN SÁT CHÚNG NHƯ CHÚNG ĐANG LÀ.
Thông thường, từ dục ái, chúng ta cố gắng tu hành gì đó với mục đích để mình khác đi theo ý nghĩ, ảo tưởng của mình hình thành từ kinh sách gì đó. Vipassanà giúp chúng ta nhận ra dục vọng muốn trở thành gì đó của chính ta.
Cách đây gần 3.000, ở Ấn độ, có một vị Thầy, không mở trường thiền, không giảng dạy theo hình thức tôn giáo. Đến gặp Ngài, sau khi nghe Ngài dạy, mỗi người trở về sinh hoạt như đã từng, không thay đổi gì cả nhưng định hướng các sinh hoạt bằng giáo pháp của Ngài và đều sống an nhiên giữa thế giới luôn rực cháy như nhà lửa này.
Có giai thoại kể rằng, gặp người cố gắng tu tập để có con mắt thứ ba, Đức Phật hỏi, hai mắt chưa đủ để thấy sao mà ráng tìm con mắt thứ ba.
Trước khi nhập Niết Bàn, Ngài dạy, mỗi người hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, nương tựa vào pháp, vào chính mình, không lệ thuộc vào ai cả.
Đại cương Vipassanà là như vậy nhưng muốn làm được cái việc " không làm gì thêm cả" thì cần học cho hiểu đúng và thực hành đúng theo những lời Đức Phật dạy trong kinh Niệm Xứ.
Mong được gặp các bạn trong lớp học Tứ niệm xứ vào chiều Thứ Bảy hằng tuần như đã thông báo.
Thầy Tâm Hạnh
Ghi thêm, Nếu các bạn ok bài đại cương này thì comment Sàdhu và chịu khó tham dự lớp học.
Hàng tuần vào lúc 6 giờ 15 tuối thứ Bảy, giờ California - 9:15 sáng Chủ Nhật, giờ Việt Nam
Giảng sư: thầy Tâm Hạnh
Zoom: https://us02web.zoom.us/j/82603060494 Meeting ID: 826 0306 0494
Trang Facebook của lớp: https://www.facebook.com/groups/196261358903478
Thông báo về sách học cho các buổi học tiếp theo.
Chào các Học viên,
Chúng ta đã kết thúc lớp học về " Tuyển tập lời Phật dạy từ Kinh tạng Pāli".
Trong buổi học chiều thứ bảy trong tuần này, chúng ta chỉ chia sẻ nhau về các lớp học đã học trong sách Hợp Tuyển.
Bắt đầu thứ Bảy ( sáng Chủ Nhật ở VN) tuần sau, Lớp học chúng ta sẽ bắt đầu với sách
" Lời Phật dạy về sự hòa hợp trong cộng đồng và xã hội _ Hợp tuyển từ kinh tạng Pāli" qua bản dịch Việt của dịch giả Nguyên Nhật Trần Như Mai ( Nguyên tác : The Buddha's Teachings on Social and Communal Harmony _ An Anthology of Discourses from the Pāli Canon_ Bhikkhu Bodhi).
Các học viên ( cũ hay mới) muốn tham dự lớp học phải có sách Việt ngữ ( người biết Anh ngữ nên có bản English mua ở Amazon).
Sách dịch Việt:
_Ở Việt Nam: ở phòng phát hành sách ở Viện Nghiên cứu PH ở đường Nguyễn Kiệm, TP HCM; các chùa Nam Truyền Theravāda hay các quầy sách Phật giáo. ( sách này, qua những lần in, chỉ ấn tống, tặng).
_ Các nước khác: tự tìm lấy hay liên lạc Ban điều hành lớp học.
_Ở vùng Orange County hay Riverside County, liên lạc xin sách trực tiếp với Anh Nghị hay chị Từ Bửu ( Mina) qua FB Sống Theo Phật Dạy
Và lấy trực tiếp từ họ hay từ Tu Viện.
_ Sách hoàn toàn Free, không đóng bất kỳ chi phí gì nhưng PHẢI LÀ HỌC VIÊN TRONG LỚP HỌC mới được nhận sách.Ngoại trừ những học viên trong lớp mà chúng tôi biết, Tu viện chỉ giao sách cho người nhận khi có sự đồng ý của Anh Nghị hay Chị Từ Bửu.
Cảm ơn các Học viên
Thầy Tâm Hạnh.