Bài học cho ngày tu học Chủ Nhật, ngày 31 tháng 8 năm 2025
CHÁNH TINH TẤN
Từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều.
Tu viện Đạo Tâm
10164 Gramercy Pl
Riverside, CA 92503
Trong ngày tu học này, chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ chủ đề CHÁNH TINH TẤN theo chương trình sau:
_Thọ giới Bát quan và ngũ giới.
_ LỄ VU LAN BÁO HIẾU
○ Cách báo hiếu cha mẹ qua những lời dạy của Đức Phật.
○ Đọc kệ Niệm Ân Phụ Mẫu
○ Sám hối với Cha Mẹ.
_ Học, thực hành NIỆM ÂN ĐỨC CỦA CHA MẸ. ( Thầy T.H hướng dẫn) _ Tại Thiền đường.
_Học về Chánh Tinh Tấn ( Thầy Tâm Hạnh hướng dẫn)
_Thảo luận, chia sẻ về HỌC VÀ THỰC HÀNH chánh Tinh Tấn theo đề cương của Ban Điều Hành học tập soạn_ Tại Phòng học.
Muốn tham dự, các học viên liên lạc ghi danh bằng tin nhắn qua các số điện thoại sau:
Diệu Trí 714 900 0719
Minh Chánh 714 392 1989
Từ Bửu 626 271 0059
Chị Phúc 562 271 8593
Lưu ý:
Nếu cần hỗ trợ phương tiện đến và về, các học viên liên lạc BTC.
BTC khuyến khích các học viên tham dự nên mặc y phục trắng ( nếu có).
Bài học CHÁNH TINH TẤN
( Bài học này, chúng tôi trích nhiều đoạn trong chương V, Chánh tinh tấn, bản dịch Bát chánh đạo của chúng tôi.)
Chánh Tinh Tấn ( Pàli: Sammà Vàyàma, Anh: Right Effort)
Sự thanh tịnh của tư cách đạo đức dựa trên ba nhân tố chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng (nhóm giới) làm nền tảng cho phần tiếp theo của con đường tu tập, phần định (samàdhikkhandha: nhóm định).
Giai đoạn thực tập đang được nêu ra tiến hành từ sự giữ gìn về mặt đạo đức đến cách trực tiếp rèn luyện tinh thần gồm có ba nhân tố chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Chánh định lấy tên từ mục tiêu mà nó muốn đạt đến; năng lực của sự tập trung chú ý liên tục, sự cần thiết của nó như cột trụ cho trí tuệ minh sát. Trí tuệ là phương tiện chính để giải thoát nhưng sự quan sát thâm sâu mà nó đạt được chỉ có thể mở ra khi tâm trí đã được định tĩnh và tập trung. Chánh định làm cho tâm được định, bằng cách tâm tập trung và không bị phân tán, hợp nhất trên một đề mục định thích hợp. Tuy nhiên, để làm được như vậy, chánh định cần sự trợ giúp của hai nhân tố chánh tinh tấn và chánh niệm. Chánh tinh tấn cung cấp nghị lực cần có cho sự thực hành và chánh niệm cung cấp sự tập trung liên tục cho quan sát.
Tinh tấn (viraya) là một tâm sở ( Pàli: cetasika. Anh: mental condition) làm nền tảng cho sự thực hành đưa đến chánh tinh tấn; có thể xuất hiện trong hình thức thiện hay bất thiện. Tâm sở này, một mặt cung cấp năng lượng cho khát vọng, gây sự, bạo lực và tham vọng nhưng mặt khác cung cấp rộng lượng, khắc kỷ, tử tế, định tĩnh và thông cảm với tha nhân. Sự cố gắng thực hành hướng đến chánh tinh tấn là một hình thức của nghị lực thiện nhưng đặc trưng hơn. Nó là nghị lực thuộc các thiện pháp của tâm thức hướng thẳng đến giải thoát khỏi đau khổ. Đoạn thuyết minh rất cụ thể vừa rồi cực kỳ quan trọng. Để cho nghị lực thiện trở thành sự hỗ trợ trên con đường tu tập, nó phải được hướng dẫn bởi chánh kiến và chánh tư duy cùng hoạt động chung với các nhân tố chánh đạo khác. Nếu không, cũng như nghị lực của tâm thiện bình thường, nó chỉ đem lại sự tích lũy phước báu của quả dị thục trong vòng sinh tử, không đem lại sự giải thoát ra khỏi luân hồi. Đây là yếu tố rất quan trọng đối với người Phật tử thực hành giáo pháp của Đức Phật.
Tại sao tinh tấn rất quan trọng như vậy? Bởi vì mỗi người phải tự giải thoát cho chính mình. Đức Phật làm những gì Ngài có thể làm, bằng cách chỉ ra cho chúng ta con đường giải thoát; phần còn lại liên quan đến việc thực hành con đường tu tập, một việc đòi hỏi nhiều tinh tấn. Tinh tấn này được dùng vào việc tu tập tâm, tức là chủ đích của tất cả con đường tu tập. Khởi điểm sự tu tập với tâm phiền não, đau khổ và dối trá nhưng mục tiêu là đạt đến tâm giải thoát, thanh tịnh và được chiếu sáng bởi trí tuệ.
Tinh tấn không ngừng là nhân tố trung gian chuyển hoá tâm phiền não trở thành tâm giải thoát. Sự việc tự mình tu tập không phải dễ, vì không ai tu tập thế cho chúng ta ngoại trừ chính mình nhưng không phải không thể làm được.
Theo tính chất tác động " tiến trình của tâm", trình tự thực hành để có chánh tinh tấn được chia thành bốn “chánh cần”:
(1) Không cho phát sinh những pháp bất thiện chưa sinh.
(2) Từ bỏ những pháp bất thiện đang có.
(3) Làm phát sinh những pháp thiện chưa sinh.
(4) Duy trì và thành tựu những pháp thiện đang có.
Những pháp bất thiện (Pàli : akusalà dhammà, Anh: The unwholesome states) là những phiền não và những tư tưởng, cảm xúc và ý định xuất phát từ chúng, dù cho hiện ra bằng hành động hay nằm yên bên trong. Những pháp thiện (Pàli: kusalà dhammà, Anh: the wholesome states) là những trạng thái của tâm không bị nhiểm ô bởi phiền não, nhất là những pháp thiện dẫn đến giải thoát. Với mỗi loại tâm này, chúng ta phải làm hai việc: Đối với tâm bất thiện, chúng ta phải ngăn ngừa những những phiền não còn ngủ yên không cho chúng xuất hiện và khống chế, trục xuất những phiền não đang xuất hiện. Đối với tâm thiện, trước hết chúng ta phải phát triển những nhân tố giải thoát chưa được phát triển; sau đó liên tục phát triển chúng đến độ thuần thục.
1) Không cho phát sinh những pháp bất thiện chưa sinh:
Đức Phật dạy: Ở đây, người phật tử vận dụng ý chí của mình không cho phát sinh điều ác, những pháp bất thiện chưa sinh. Vị ấy thực hiện sự nỗ lực, thúc đẩy sự tinh tấn, khơi động sinh lực của mình, tận dụng tâm trí và cố gắng hết sức. ( AN 4:13_ Tăng chi bộ 4:13)
Phần thứ nhất của chánh tinh tấn nhằm mục đích chế ngự những pháp bất thiện, những trạng thái của tâm bị nhiễm ô bởi phiền não. Về mặt làm cản trở cho thiền định, các phiền não thường có mặt trong một nhóm gồm năm thành phần được gọi là “năm triền cái” ( Pàli: panñcanīvaranā, Anh: hindrances): ái dục, sân hận, hôn trầm thùy miên, trạo cử hối quá và nghi. Chúng có tên “triền cái” bởi vì ngăn chặn con đường giải thoát; phát triển và che mờ cả tâm trí, ngăn cản sự định tĩnh và minh sát là hai phương tiện quan trọng nhất cho sự tiến bộ trong tu tập.
Để hiểu thêm về sự hoạt động của 5 triền cái bất thiện này, chúng ta quay trở lại " diễn trình nhận thức."
Ghi chú,
Chúng tôi cố gắng trình bày hết sức đơn giản, dễ hiểu bằng những ngôn ngữ phổ thông nhưng vẫn trung thành với chủ đề này theo Phật học.
Khi giác quan tiếp xúc đối tượng, kích hoạt chức năng của giác quan ấy hoạt động _ thức tri_. Kích hoạt các tâm sở khác ĐỒNG THỜI HOẠT ĐỘNG để tạo ra sự nhận thức.
_ Tâm sở xúc hợp nhất 3 thành phần: giác quan, đối tượng và chức năng nhận thức.
_ Tâm sở " tác ý" hướng liên tục về đối tượng giúp tâm ghi nhận đối tượng theo nhận định của nó, như bánh lái ghe điều chỉnh hướng đi cho mũi ghe _tâm_.
_ Tâm sở thọ chụp bắt lấy hình ảnh ( thông tin sơ bộ) của đối tượng, đưa lên não.
( Chúng tôi tạm dùng não bộ cho học viên dễ hiểu nhưng Phật học dùng từ ngữ khác.)
_ Tâm sở tưởng ( Pàli: sañña, Anh: perception) thực hiện đồng thời ba chức năng:
a. Tiếp thu thông tin sơ bộ từ thọ.
b. Phân tích các dữ liệu trên thông tin 1 để hình thành khái niệm về thông tin đó ( nó là... gì)
c. Xác định thông tin đó là gì từ 2 cơ sở: 1. Những thông tin cũ được lưu trong bộ nhớ. 2. Đặt ra ( making up) thông tin mới.
_ Tâm sở tư, ý chí ( Pàli: cètana, Anh: volition) thống lĩnh, hợp tác các tâm sở thiện, bất thiện, trung tính, định hình nhận thức trên đối tượng (bên ngoài) BẰNG KHÁI NIỆM ( tục đế) ( thông tin 2).
Từ đây, tướng chung và tướng riêng từ khái niệm ( thông tin 2) trên đối tượng phát sinh. Chính tướng chung và tướng riêng này kích hoạt " năm triền cái" đang ở tầng đáy của tâm thức, có cơ hội ngoi lên, nhào ra, chụp lấy đối tượng, đồng hóa nó với đối tượng.
Ví dụ, nhìn thấy mặt ai đó, trong tình huống chúng ta thấy cái mặt đó đáng ghét nhưng thực ra triền cái sân, ghét đang nhào ra, chụp lên mặt người kia, đồng hóa sự sân hận, đáng ghét của nó với mặt người kia, làm cho chúng ta thấy mặt người kia đáng ghét nhưng không biết mình đang bị triền cái sân chi phối ( cũng như mang cặp kính màu đỏ thì thấy đối tượng gì cũng đỏ) NHƯNG KỲ THẬT cái mặt chỉ là cái mặt, không đáng yêu hay đáng ghét gì cả. Tại sao? Có thể trước đó, chúng ta thấy cái mặt đó " rất đáng yêu" ...là từ " tham dục triền cái".
Bốn triền cái còn lại hoạt động chi phối chúng ta cũng vậy.
Cả năm triền cái đều được kích hoạt từ " tướng chung và tướng riêng". Thế nên, việc nhận ra tướng chung, tướng riêng rất quan trọng trong sự tu tập.
2) Từ bỏ những pháp bất thiện đang có.
Đức Phật dạy: Ở đây, người phật tử vận dụng ý chí của mình để chiến thắng những điều xấu ác, những pháp bất thiện đang có bằng cách cố gắng, phát động nghị lực, tận dụng hết tâm trí và chống lại chúng. ( AN 4:13_ Tăng chi bộ)
Năm triền cái bất thiện được nhận ra ở đâu? Ngay khi chúng ta ĐANG NÓI, ĐANG HÀNH ĐỘNG, ĐANG SUY NGHĨ. Khi nhận ra chúng, lấy chúng làm đối tượng ghi nhận, quán sát thì chúng bị vô hiệu hóa.
Trong diễn trình nhận thức, thật sự, với khả năng hiện có, chúng ta chưa có thể nhận ra hoạt động tương tác năm triền cái với các tâm sở vì chúng đồng sinh, đồng diệt, đồng giác quan, đồng đối tượng, diễn tiến cực kỳ nhanh. Tuy nhiên, bằng cách học và thực hành Vipassanà trên thân, thọ, tâm, pháp, chúng ta có thể nhận ra " nhóm hoạt động" của chúng.
Niệm thân nhận ra tâm sở xúc và tác ý.
Niệm thọ nhận ra tâm sở thọ.
Niệm tâm nhận ra tâm sở ý chí _ cètana _ volition và các tâm sở tùy tùng theo nó.
Niệm pháp nhận ra năm triền cái và hoạt động của tâm sở tưởng.
Ngoài ra, chúng ta có thể tham khảo cách giải quyết năm triền cái theo Đức Phật dạy, Bản dịch Bát Chánh đạo của chúng tôi, từ trang 147 đến 151.
3) Làm phát sinh những thiện pháp chưa sinh.
Đức Phật dạy:Ở đây, người phật tử vận dụng ý chí của mình làm phát sinh những thiện pháp chưa sinh bằng cách nỗ lực, kích động nghị lực, tận dụng hết tâm trí và cố gắng. ( AN 4:13_ Tăng chi bộ)
Những thiện pháp bao gồm: bố thí, trì giới, tu tập 37 phẩm trợ đạo, chỉ và quán. Chúng ta học, chiêm nghiệm, các thiện pháp trên, làm nền tảng cho sự thực hành.
(4) Duy trì và thành tựu những thiện pháp đang có.
Đức Phật dạy: Ở đây, người phật tử vận dụng ý chí của mình duy trì những thiện pháp đang xuất hiện, không cho chúng mất đi mà làm chúng lớn mạnh, trưởng thành và phát huy đến thành tựu. Vị ấy nỗ lực, thúc đẩy nghị lực của mình, tận dụng tâm trí và cố gắng hết sức. ( AN 4:13 _ Tăng chi bộ)
Chúng ta học, hiểu, thuộc, chiêm nghiệm các thiện pháp đã nêu ở trên, luôn luôn tiếp tục ứng dụng vào các sinh hoạt hằng ngày thì đó là ĐANG LÀM cho các thiện pháp đi đến thành tựu.
Các câu hỏi gợi ý:
1/ Bốn chánh cần là gì?
2/ Năm triền cái là gì?
3/ AC có từng nhận ra 5 triền cái trong ý nghĩ không?
4/ AC đã từng nhận ra 5 triền cái, dùng những giáo pháp đã học khống chế, không làm theo một trong năm triền cái đang chi phối lời nói, hành động, ý nghĩ không?
5/ AC đã từng học, hiểu và thuộc các chi phần những thiện pháp nào như bố thí, trì giới, một trong 37 phẩm trợ đạo.
6/ AC đã từng thực hành những thiện pháp nào?
7/ AC đã có những kết quả gì ngay trong đời sống khi thực hành các thiện pháp?